MS554 – Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than


Đề bài: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.” (Trăng sáng, Nam Cao)

Bài viết

Văn học chính là tấm gương phản ánh cuộc sống, soi chiếu cuộc đời, để qua đó mỗi người có thể tự rút ra những bài học cho riêng mình. Bởi vậy văn chương chân chính phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, và được đúc rút kinh nghiệm của người cầm bút. Những tác phẩm văn học kinh điển sở dĩ tồn tại đến ngày nay là do quá trình đúc rút, trải nghiệm từ chính tác giả, chắt lọc từ hiện thực cuộc sống đầy khổ đau, chát chúa. Vì vậy bàn về nghề văn và bàn về sự ra đời của tác phẩm văn học chân chính, nhà văn Nam Cao đã viết: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.”(Trăng sáng), đúng vậy văn chương thực sự muốn tồn tại ở cuộc đời này phải bắt nguồn từ cuộc đời thực, phản ánh chân thực những chuyển biến xã hội đang diễn ra trong cuộc đời, và con người trong văn chương phải sống động là những con người từng trải, hiểu đời, hiểu người. Nếu nghệ thuật chỉ là ánh trăng lừa dối thì văn chương sẽ chết, những trang văn trở nên hư ảo, mơ hồ, trống rỗng nuôi dưỡng những cảm xúc không hề tồn tại trong con người, chúng chỉ có thể là những dòng văn lãng xẹt khiến cho con người bi lụy, ảo tưởng về cuộc đời, về sức mạnh của mình. Nam Cao đã có một nhận định đúng đắn trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình.

ms554 nghe thuat khong can phai la anh trang lua doi nghe thuat khong nen la anh trang l - MS554 - Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than

Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối

Hiện thực cuộc sống đầy rẫy bất công và đau khổ, có những góc khuất trong cuộc đời mà chính chúng ta không thể nhìn thấy được, nhưng nhà văn bằng những cảm quan đặc biệt, bằng sự rung động tinh tế giữa cuộc đời có thể phát hiện ra những bất công, những góc tối trong cuộc sống con người: Đó chính là tiếng thét đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than. Chúng ta sẽ và không bao giờ quên được, hình ảnh Chí Phèo con quỷ dữ của làng Vũ Đại bị tha hóa, biến chất bởi bàn tay của bọn cường hào ác bá. Làm sao chúng ta có thể không nhớ về một anh canh điền hiền lành như đất luôn tràn đầy khát vọng có một gia đình nho nhỏ chồng cuốc mướn, vợ cày thuê, trong khi anh canh điền ấy xuất thân bần cùng nghèo khổ tột bậc: không cha, không mẹ, không mảnh đất cắm dùi được nuôi nấng bởi những tấm lòng yêu thương của người dân làng Vũ Đại. Nhưng trong xã hội đầy biến động, một nơi người ăn thịt người, cá lớn nuốt cá bé thì anh canh điền Chí Phèo hiền lành lương thiện ngày nào không thể thoát khỏi sự bế tắc tha hóa. Nhà tù thực dân đã tước mất quyền làm người của anh, hủy hoại nhân tính lẫn nhân hình, Chí Phèo đã đánh mất chính mình trước cuộc đời tăm tối đầy rẫy bất công, sâu xa hơn, tác giả Nam Cao đã  chỉ ra thế lực khiến cho Chí Phèo mất đi cuộc sống tự do đó chính là bọn cường hào ác bá mà điển hình  là Bá Kiến. Tuy nhiên  Nam Cao vốn dĩ xuất thân từ nông dân và hơn ai hết ông thấu hiểu tấm lòng của người nông dân, ông vẫn tin tưởng rằng từ sâu thẳm tận cùng của người nông dân đặc biệt là Chí Phèo vẫn còn chỗ cho sự thiện lương, cho lương tri tồn tại, bởi vì thế Nam Cao không xây dựng cuộc đời của Chí Phèo mất hết tất cả mà đóng vai người sáng tạo, ông tạo ra Thị Nở là người thấu hiểu, đồng cảm cho hoàn cảnh của Chí Phèo là người được nuôi hi vọng bắc cây cầu dẫn Chí trở về con đường lương thiện. Đó chính là sáng tạo độc đáo của Nam Cao. Nam Cao thấu hiểu cuộc đời, thấu hiểu lòng người nên chính vì thế ông mới có thể tạo nên những áng văn chương tuyệt tác để lại dấu ấn đậm sâu trong lòng người đọc, đó là dấu triện riêng, là phong cách sáng tác không bao giờ lẫn lộn với các tác giả khác, đó là sự sáng tạo tận cùng của chính tác giả. Do đó Nam Cao không bao giờ sử dụng nghệ thuật để vuốt ve, để xoa dịu một cách nông cạn sự đau khổ của con người mà ông xuất phát từ hiện thực cằn cỗi, từ thực trạng những người nông dân bị bóc lột đến tận xương tủy để có thể viết nên những trang đời sâu sắc, tinh tế.

>> Xem thêm:  MS494 - Kể về một chuyến về thăm quê nội hoặc quê ngoại

Đối lập với những trang viết gai góc, góc cạnh như mổ xẻ tinh vi đến tận cùng cuộc sống, chúng ta lại nhìn thấy những trang viết bay bổng lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn, đó là những trang văn mô tả đầy đủ đời sống vật chất của con người, là những trang văn nâng niu những cảm xúc tế vi của lòng người nhưng nó không hề hợp với bối cảnh xã hội đương thời. Bởi giữa cuộc đời đau khổ nghiệt ngã, giữa một đất nước phong kiến thuộc địa mà người ta chỉ mải mê đưa mình theo dòng cảm xúc mơ hồ, mênh mông không gợn chút sóng gió như thế thì thật là đáng trách, đáng lên án, nghệ thuật lúc ấy không thể trở thành vũ khí đắc lực  lôi kéo con người ra khỏi thực tại hỗn độn để con người tự nhận thức chính mình mà nó đã ru ngủ con người, khiến con người như tê dại đi trong những cảm xúc mong manh dễ vỡ, nghệ thuật lúc đó chỉ là ánh trăng lừa dối. Chúng ta không phủ nhận những đóng góp qua các tác phẩm của Tự lực văn đoàn, và những sự cố gắng, nỗ lực của họ nhằm làm cho nền văn chương trở nên phong phú và đa dạng, nhưng đại đa số những cây bút ấy đều xuất phát từ tầng lớp trí thức ít kinh nghiệm vốn sống, chỉ tiếp nhận những kiến thức tri thức trong nhà trường nên chưa thể thấu hiểu hết những nỗi thống khổ của những người bình dân lao động, hồ chí ca ngợi những cảnh hồn bướm mơ tiên, những thứ tình yêu nam nữ lãng mạn ủy mị, không phù hợp với hiện thực.

Vũ Trọng Phụng khi trả lời về quan niệm nghệ thuật của mình ông từng nói thẳng rằng: “Các ông muốn tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết, tôi và nhà văn cùng chí hướng của tôi muốn tiểu thuyết chỉ là sự thực ở đời”.  Như vậy ở đây, Vũ Trọng Phụng đề cao hiện thực cuộc sống, lấy đó làm nền tảng để có thể sáng tạo nên nghệ thuật chân chính, ông đã chứng minh quan điểm và tài năng nghệ thuật của mình qua tác phẩm rất nổi tiếng Số đỏ, mà đến bây giờ thời hiện đại đọc lại người ta không khỏi ngưỡng mộ, khâm phục tài năng của tác giả. Sinh trưởng trong gia đình nghèo gia truyền, giỏi văn thơ, giỏi nắm bắt hiện thực cuộc sống và có cái nhìn vô cùng tinh tế với xã hội, lại thường qua lại tiếp xúc với tầng lớp thượng lưu Vũ Trọng Phụng đã bóc trần sự giả dối, tàn ác của tầng lớp này qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – một trích đoạn nổi tiếng của Số đỏ. Cụ cố tổ chết đi là dịp đám con cháu có thể khoe ra những thói hư tật xấu những ảo vọng của mình, những ham muốn của mình, tất cả đều hướng đến gia sản kếch xù chưa có ai thừa kế của cụ. Những nhân vật như cụ cố Hồng, Văn Minh, cậu Tú Tân, Tuyết ngây thơ đều thể hiện rõ bản chất của mình trong đám ma cụ cố tổ, chúng chỉ muốn tranh giành lấy số tiền mà ông cụ để lại. Đọc Số Đỏ người ta nhận ra tình người trong xã hội thượng lưu thật là rẻ rúng thật là đáng sợ, họ chim nhau, họ cười tình với nhau trong đám ma, mà không một ai xót thương cho sự ra đi của người đã khuất. Bề ngoài đám ma hào nhoáng, lộng lẫy kia thực chất chỉ trống rỗng, cạn khô tình người bởi đồng tiền đã lăn tròn lên lương tâm lăn tròn lên đạo lý làm người, khiến con người làm ngơ ngoảnh mặt trước tình thân trước cuộc đời. Phải chăng cảm nhận được điều đó mà mỗi trang văn của Vũ Trọng Phụng như những trang đời đẫm nước mắt, chua chát, xót xa cho một xã hội chó đểu, khô cạn tình thương giữa con người với con người mà chỉ còn là những thú vui xa xỉ những lời đùa cợt trêu chọc rỗng tuếch. Phải là nhà văn có con mắt tinh đời, phải quan sát kỹ càng tỉ mỉ phải lăn xả vào cuộc đời, đồng thời yêu cuộc sống mãnh liệt với khát khao thức tỉnh lương tri con người thì tác giả Hạnh phúc quả một tang gia mới có được những trang viết “kinh điển” xứng vào hàng tuyệt tác như thế. Như vậy nhà văn đã làm tròn thiên chức của mình là phản ánh hiện thực cuộc sống thông qua lăng kính chủ quan để gửi gắm những thông điệp tích cực đến con người. Sẽ như thế nào nếu một ngày văn chương  chẳng  còn gắn bó với cuộc đời, mà văn chương chỉ đơn thuần là trò mua vui giải trí thì liệu nhận thức của con người có được nâng cao, có được thức tỉnh. Lúc đó tôi e rằng văn chương sẽ lâm nguy, văn chương như cánh diều đứt dây bay lửng lơ giữa bầu trời cuộc đời mà không có điểm dừng có định, khi ấy nhà văn chỉ trở thành những kẻ bồi bút, những kẻ gieo rắc những thức tình cảm ủy mị tàn hại tâm hồn và trí tuệ con người.

“Một nhà văn chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” và nhà văn muốn tồn tại ở đời phải “mở hồn mình ra đón lấy những vang động của cuộc đời”. Chúng ta tiếc thương cho những tài năng nghệ thuật không được phát triển giữa cuộc đời vì hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương. Chúng ta không thể nào quên được một Vũ Như Tô đầy hoài bão, khát khao cống hiến nhưng không được đền đáp vì lý tưởng nghệ thuật của ông không thực tế và ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Vũ Như Tô muốn xây dựng một Cửu Trùng Đài lộng lẫy điểm tô cho cuộc đời và khẳng định tài năng của mình nhưng lý tưởng nghệ thuật của nhân vật, hoài bão của nhân vật lại bấp phải hiện thực nghiệt ngã, đời sống nhân dân lầm than, tăm tối, dân bị bần cùng, bị bóc lột vơ vét thì còn đâu tâm sức để có thể ủng hộ những mộng tưởng nghệ thuật cao siêu của nhà kiến trúc tài năng, thậm chí chỉ hiểu thôi đã là việc quá khó khăn. Chính vì vậy mà lý tưởng của Vũ Trọng Phụng tan vỡ, những ấp ủ và dự định nghệ thuật biến thành mây khói trong biển lửa trong sự nổi dân, căm phẫn của nhân dân, trong sự bạc nhược của nhà vua. Vũ Như Tô tài hoa, thông minh nhưng không gặp thời, và đành lãng phí tài năng của mình vào một xã hội cuồng loạn. Từ đây Nguyễn Huy Tưởng cùng chung quan điểm nghệ thuật với Nam Cao đó là người nghệ sĩ muốn sáng tạo thì phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, phù hợp với cuộc đời, và nghệ thuật muốn tồn tại thì phải có gốc rễ từ cuộc sống nếu không nó chỉ như một tòa Cửu trùng ảo diệu, lãng mạn mà thôi.

>> Xem thêm:  Nhận xét của em về nhân vật Lý Thông trong truyện cổ tích Thạch Sanh

Khi một nhà văn mới xuất hiện người ta sẽ băn khoăn tự hỏi liệu anh ta sẽ mang đến điều gì mới mẻ cho văn học, điều người đọc cần đó chính là sự sáng tạo của nhà văn, đó là những bứt phá trong cách viết và nghệ thuật và nhà văn và những thứ đó cần quá trình đào luyện, trải nghiệm và rèn luyện mỗi ngày. Bởi vậy hơn ai hết nhà văn phải có vốn sống kinh nghiệm nhất định thì mới có thể sáng tạo văn học, nếu nhà văn chỉ lấy kiến thức sách vở để sáng tạo văn chương thì tác phẩm ấy chắc chắn thất bại. Vì thế khi Thạch Lam viết tác phẩm Hai đứa trẻ chúng ta nhìn thấy sự đồng cảm, xót thương của nhà văn đối với tâm hồn mong manh tinh tế của chị em Liên và An, dù đêm đã khuya nhưng hai chị em vẫn cố gắng thức để đợi chuyến tàu, chuyến tàu đêm là hi vọng là niềm tin của hai chị tin vào cuộc sống tươi sáng đầy khát vọng và đầy ước mơ khác hẳn cuộc sống phố huyện tăm tối mà hai chị em đang sống. Những dòng văn lãng mạn, đầy cảm xúc của tác giả Thạch Lam khiến chúng ta nhìn thẳng vào hiện thực cuộc sống đó là hãy cứu rỗi những tâm hồn trẻ dại, cứu lấy ước mơ và tuổi thơ của các em để các em được sống trong thế giới đủ điều kiện để các em phát triển, đó là tấm lòng nhân đạo của Thạch Lam tác giả đã phát hiện ra cái đẹp giản dị, tiềm tàng ở mọi vật bình thường ở cuộc đời.

>> Xem thêm:  Kể lại câu chuyện về người hàng xóm mà em quý mến

Muốn nghệ thuật sống mãi mãi với cuộc đời, thì nhà văn chính là người thắp lửa nhen nhóm thông điệp của mình đến người đọc, muốn vậy nhà văn phải là người có kiến thức uyên bác, trải nghiệm phong phú và tay nghề chắc chắn thì mới có thể hấp dẫn người đọc qua từng trang văn, qua những dòng thơ xuất phát từ chính trái tim và trải nghiệm của người nghệ sĩ. Bởi vậy muốn văn chương thực sự là văn chương thì chính người cầm bút phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Ý kiến trên của Nam Cao quả là xác đáng, và trở thành kinh nghiệm viết văn quý giá cho những thế hệ nhà văn sau này có thể tránh khỏi thứ văn chương thi vị hóa, lãng mạn hóa cuộc đời, ru ngủ con người trong những ảo tưởng, mộng mơ.

Hoàng Bạch Diệp

Bài viết liên quan