Phân tích bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Đề bài: Phân tích bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Bài làm
Khi Nguyễn Khoa Điềm mạnh dạn viết lên bài thơ “Đất Nước” thì trước đấy trong văn học Việt Nam đã có biết bao nhiêu “đất nước” khác. Đó là một nước Nam của vua Nam trong thơ Lý Thường Kiệt; bờ cõi của “Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời” trong bài cáo Nguyễn Trãi; là mảnh đất “hóa tâm hồn” thơ Chế lan Viên hay thế “Đất nước đứng lên” thơ Nguyên Ngọc. Đến lúc này, Nguyễn Khoa Điềm chọn những cách “định nghĩa” rất riêng về đất nước để làm nên sức sống ngàn đời cho tác phẩm. Bài thơ “Đất Nước” là hội tụ cao nhất của tài năng, phong cách và tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm.
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại mảnh đất Thừa Thiên giàu truyền thống hiếu học. Ông vừa là một nhà thơ cũng vừa là nhà chính trị xuất sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông tốt nghiệp trường Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cùng một lứa với những cây bút như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân… Ông hoạt động sôi nổi trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đặc biệt là viết báo, làm thơ… đấu tranh, cổ vũ cách mạng. Thời bình, Nguyễn Khoa Điềm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng, Bộ Chính trị và Hội Nhà văn Việt Nam.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Khoa Điềm là trường ca “Mặt đường khát vọng” (1974). Đoạn trích “Đất Nước” được trích từ chương V của bản trường ca này, ra đời trong những năm tháng chiến trường nóng bỏng ở Bình – Trị – Thiên của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đối lập với chiến trường Bình – Trị – Thiên bấy giờ là Sài Gòn – “hòn ngọc viễn đông” đang rơi vào tha hóa khi văn hóa thực dân theo con đường xâm lược ồ ạt tràn vào. Bài thơ “Đất Nước” là lời nhắc nhở về cội nguồn và đạo lí dân tộc, từ đó thức tỉnh bộ phận thanh niên từ bỏ lối sống hưởng thụ, xây dựng lại tinh thần dân tộc.
Trong bài thơ “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm thực hiện ý đồ của mình thông qua cách cảm nhận mới mẻ của bản thân về đất nước và khẳng định bản chất đất nước là của nhân dân.
Là thế hệ trẻ xuống đường giương cờ Tổ quốc, xung phong cứu nước, Nguyễn Khoa Điềm đã có những nhận thức rất đúng đắn về cội nguồn của đất nước:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Vậy là đất nước bắt nguồn từ những trầm tích văn hóa lâu đời nhất, trong những điều bình dị, đời thường nhất. Không dùng một con số cụ thể để đo niên đại đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy cái “ngày xửa ngày xưa” để làm dấu mốc khai sinh dân tộc. Không ai biết cái “ngày xưa” ấy là khi nào, nhưng lại có khả năng gợi lại truyền thuyết, điển tích dân gian từ những ngày nước Việt khai hoang lập ấp đến nay. Đó là trong miếng trầu thơm thảo như cô Tấm; là Thánh Gióng nhổ bụi tre làng đánh tan giặc ngoại xâm; là tình nghĩa mặn nồng như muối, như gừng; là tục lệ đặt tên con cái; hay trên “hạt gạo làng ta” khó nhọc trên tay người nông dân… Gọi tên đất nước trong người bà, cha mẹ, cái cột, cái kèo, hạt gạo… không những không bị khô khan mà ngược lại còn khiến cho lời thơ trở nên gần gũi, thân thuộc.
Phân tích bài thơ Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục đi định nghĩa về đất nước thông qua ba phương diện là không gian địa lí, thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa.
Trong không gian địa lí, nhà thơ đã tách riêng hai thành tố cơ bản của đất nước là đất và nước:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi””
Cách nói “Đất là”, “Nước là” rồi hòa chung thành “Đất Nước là” bên cạnh tình yêu đôi lúa riêng tư đã khẳng định đất nước có trong mỗi cá nhân.
Mặt khác, nhắc lại điển tích về phượng hoàng bay về núi bạc và cá ngư ông biển khơi lại cho thấy một không gian đất nước mênh mông, rộng lớn, trù phú bao la.
Còn khi đất nước căn cứ vào thời gian lịch sử, nó lại được định nghĩa là cội nguồn thiêng liêng gắn vói những truyền thuyết xa xưa:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Đến đây, “Đất Nước” là sự kết tinh tình yêu vĩ đại giữa Lạc Long Quân – biểu tượng của nước và Âu Cơ – biểu tượng cho đất rừng. Để cuối cùng người đời sau nhận trách nhiệm gánh vác toàn bộ trách nhiệm và truyền thống:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Chính vì lẽ đó mà bài thơ rất có giá trị giáo dục.
Đến phần sau của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện quan niệm đất nước là thuộc về nhân dân.
Giải thích lí do, nhà thơ đã đi từ việc khẳng định đất nước được kết tinh từ toàn bộ đời sống tâm hồn, tình cảm của nhân dân và do chính nhân dân sáng tạo nên đất nước:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Từ đôi tay nhỏ bé của “anh” và “em” thì “chúng ta” cùng nhau “cầm tay mọi người”, cách nói này khiến mạch thơ liên kết thành một chuỗi các mối quan hệ để cuối cùng làm “tròn” đủ một đất nước.
Từ đây, nhà thơ nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm cá nhân:
“Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở”
Những từ “gắn bó”, “san sẻ” và “hóa thân” đã vẽ ra lối đi đúng đắn cho mỗi người trong cuộc sống. Từ việc hòa mình vào xã hội rồi đồng cam cộng khổ và cuối cùng là không tiếc hi sinh bản thân. Hai câu thơ khiến tôi nghĩ tới “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Thế “đất hóa tâm hồn” là như thế nào? Nguyễn Khoa Điềm vừa nói với chúng ta điều đó:
“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Hàng loạt địa danh, thắng cảnh khắp ba miền: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, ao đầm, Đất tổ Hùng Vương, dòng sông xanh, núi Bút, non Nghiên, Hạ Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… đều là do nhân dân hóa thân và khai sinh ra nó. Thế nên, Nguyễn Khoa Điềm mới thấy “những cuộc đời” ở trên mỗi nơi của mảnh đất chữ “S” này.
Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân thông qua việc khẳng định công lao xây dựng, bảo vệ Tổ quốc:
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng”
Đất nước nào tự nhiên mà có. Đất nước phải là do người con gái, người con trai bao thế hệ đã cùng nhau giữ gìn. Bốn ngàn năm giặc lăm le bờ cõi, có lúc đất nước đã mất chủ quyền, chìm trong ách đô hộ ngàn năm, nhưng đến cuối cùng vẫn có những “anh hùng” nhân dân đứng lên giành lại đất nước.
Kết luận của Nguyễn Khoa Điềm là:
“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Họ không chỉ hi sinh giành lại đất nước mà tiếp tục bảo vệ bằng cách lưu truyền những giá trị tốt đẹp dân tộc:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
Đoạn thơ với sự lặp lại của cách biểu đạt: “họ giữ”, “họ truyền”, “họ đắp”, “họ gánh”… đã vẽ lên một cảnh tượng tráng lệ. Tập thể người dân đoàn kết tựa như một người khổng lồ đón nhận thành quả phía trước để trao lại cho người phía sau. Thành quả ấy là lương thực, lối sống, tiếng nói, nghệ thuật sản xuất nông nghiệp, làng, xã…
Cuối cùng, tư tưởng đất nước của nhân dân được biểu hiện qua ca dao thần thoại. Ở đó, nhân dân chính là người tô điểm và làm đẹp cho quê hương, xứ sở:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Đoạn thơ ngân lên như câu hát quê hương ngợi ca công lao nhân dân làm nên “trăm màu”, “trăm dáng” khác nhau. Nơi đâu có nhân dân, nơi ấy thiên nhiên như được “bắt lên câu hát” ngọt ngào. Tư tưởng tốt đẹp ấy đã gợi cảm hứng cho Nguyễn Khoa Điềm viết lên những câu thơ thật đẹp.
Tóm lại, bài thơ “Đất Nước” đã thành công khi khai thác một đề tài tưởng như đã quá quen thuộc. Nổi bật trong bài thơ là giọng điệu và ngôn từ ngọt ngào, gần gũi với văn học dân gian. Cách thể hiện vấn đề mới lạ, độc đáo đã tạo nên những thú vị riêng cho bài thơ. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện sâu sắc hiểu biết sâu rộng, tư tưởng chính trị vững vàng và tình yêu nước thiết tha. Bài thơ không chỉ là tiếng chuông cảnh tỉnh cho người trẻ Sài Gòn thời đấy mà còn có giá trị nhận thức cho mọi thế hệ người dân Việt Nam.
Hoài Lê