Phân tích bài thơ Từ ấy của tác giả Tố Hữu
Phân tích bài thơ Từ ấy của tác giả Tố Hữu
Bài làm
Trong những nốt nhạc vang lên từ bản giao hưởng của phong trào Thơ mới,khi mà những thi sĩ đầu mùa vẫn đang bận bịu trong chiếc áo của cái tôi cá nhân đầy những trăn trở và suy tư về lẽ sống trong cuộc đời,thì Tố Hữu đã lột bỏ chiếc áo chật chội ấy mà hòa mình với nhân dân,hòa mình với lí tưởng lớn lao của cách mạng. Người chiến sĩ đã tìm thấy ánh sáng của ngọn lửa Đảng, thắp sáng một niềm tin yêu chân thành với cách mạng Việt Nam những ngày đầu kháng chiến. Và “Từ ấy” ra đời như một kết quả tất yếu,đánh dấu bước ngoặt trọng đại,thiêng liêng trong cuộc đời và sự nghiệp của Tố Hữu. Đồng thời, nó còn là tiếng reo vui, hân hoan mà rộn rã của Tố Hữu khi lần đầu tiên đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Đây là một thi phẩm có ý nghĩa đặc biệt trong thơ ca Cách mạng của Tố Hữu, nằm ở phần “Máu lửa” – phần đầu của tập thơ “Từ ấy” và được chọn làm nhan đề cho cả tập thơ này. Tháng 7 – 1938, Tố Hữu viết bài thơ này nhằm ghi lại một kỉ niệm đẹp, đáng nhớ khi ông được giác ngộ lí tưởng Cách mạng, được đứng trong hàng ngũ của những con người tiên phong, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. “Từ ấy” là một trạng từ chỉ thời gian mang tính phiếm định nhưng trong bài thơ của Tố Hữu đó lại là thời gian xác định, gắn với ý nghĩa thiêng liêng, quan trọng nhất đối với nhà thơ. Không chỉ vậy, “Từ ấy” còn là thời điểm diệu kì đánh dấu mối duyên đầu của thanh niên trí thức tiểu tư sản đến với Cách mạng khi bắt gặp ánh sáng của lí tưởng Cộng sản và đó là giây phút trở thành thiên thu trong tâm hồn nhà thơ. Đi vào thế giới nghệ thuật của bài thơ ta sẽ thấy rõ điều đó.
Phân tích bài thơ Từ ấy của tác giả Tố Hữu
Chỉ mới đọc hai câu thơ đầu tiên nhưng cũng đủ để ta thấy được niềm vui sướng, say mê khi bắt gặp lí tưởng Đảng của Tố Hữu:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
Bằng bút pháp tự sự, Tố Hữu đã kể lại một thời khắc thiêng liêng, một kỉ niệm không bao giờ quên của cuộc đời mình. “Từ ấy” là mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của ông. Khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động rất tích cực trong Đoàn thanh niên cộng sản Huế, được giác ngộ lí tưởng, được kết nạp vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời chân lí”, Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng Cộng sản như một nguồn sáng mới, làm bừng sáng tâm hồn người thanh niên đang “băn khoăn đi tìm lẽ yêu đời”. Nguồn sáng ấy không phải ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sảng rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn nữa nguồn sáng ấy còn là mặt trời và là mặt trời khác thường: “Mặt trời chân lí” – một sự liên kết giữa sáng tạo hình ảnh và ngữ nghĩa: Nếu mặt trời của tự nhiên tỏa ra ánh sáng, hơi ấm và sức sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải. Đặc biệt, động từ “bừng” vốn chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, đã được nhà thơ sử dụng để miêu tả sự bừng tỉnh của tâm hồn, của trí tuệ ở thời điểm được giác ngộ lí tưởng, ngộ ra chân lí, vỡ lẽ ra bao điều. Thêm vào đó, từ “chói” nêu bật sự chói sáng, diễn tả sự xuyên thấu mạnh, góp phần nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng Đảng đã soi thấu vào những ngõ mạch sâu kín nhất trong tâm hồn, trong trí tuệ, nhận thức của nhà thơ, xua tan hoàn toàn sự u ám của tư tưởng tiểu tư sản, thiêu đốt bóng tối tư tưởng của chủ nghĩa cá nhân, đồng thời mở ra một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng và tình cảm.
Qua những hình ảnh so sánh cùng với bút pháp trữ tình lãng mạn ở hai câu thơ sau, nhà thơ đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của mình trong buổi đầu đến với lí tưởng Cộng sản:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Thế giới tâm hồn của nhà thơ từ giây phút kì diệu đó tựa như một khu vườn tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca. Tố Hữu sung sướng đón nhận lí tưởng như cỏ cây, hoa lá đón nhận ánh sáng mặt trời. Chính lí tưởng Cộng sản đã khiến cho tâm hồn con người ấy tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, làm cho cuộc sống của con người ấy ý nghĩa hơn. Nhưng Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật, trái lại, đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho nhà thơ.
Quả thực, lí tưởng của Đảng đã trở thành duyên nợ của mối tình đầu thiêng liêng, và hơn thế còn là ơn nghĩa sinh thành cho cuộc đời ông và cũng là sự khởi đầu kì diệu cho hồn thơ Cách mạng, khiến Tố Hữu luôn khắc cốt ghi tâm nguyện sống trọn đời với lí tường cao đẹp ấy. Nhà thơ đã kể lại một kí niệm đáng nhớ của cuộc đời mình bằng tất cả tình cảm chan thành, trong trẻo, nồng nhiệt, lạc quan, tinh tưởng và tự hào.
Nếu cái “tôi” của thơ mới bơ vơ, lạc lõng thì cái tôi của Tố Hữu lại gắn liền với cộng đồng, với mọi người:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm vạn khối đời”
Sự chuyển biến trong nhận thức của người thanh niên yêu nước Tố Hữu từ buổi “Từ ấy” góp một cái “tôi” trữ tình kiểu mới vào thơ ca Việt Nam nói chung, thơ ca Cách mạng những năm 1930 – 1945 nói riêng. Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản đương thời, cái “tôi” cá nhân được đề cao. Trong hoàn cảnh thuộc địa tăm tối, nhiều cái “tôi” chán ghét cuộc đời. Nhưng kể từ khi được giác ngộ lí tưởng Đảng, Tố Hữu đã khẳng định một quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung của mọi người, của dân tộc. Điệp từ “với”, khẳng định sự gắn kết mật thiết thiêng liêng giữa cái riêng và cái chung để tạo nên sức mạnh đoàn kết vô song của những con người cùng chung lí tưởng, cùng chung mục đích sống. Động từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện chân thành sâu sắc và lòng quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi” cá nhân để gắn kết, để sống chan hòa với mọi người. Với tính từ “trang trải” cùng với nghệ thuật hoán dụ “trăm nơi” để chỉ tất cả mọi người, nhà thơ như muốn trải rộng tâm hồn với cuộc đời để đồng cảm với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. Các cặp từ đối xứng trong khổ thơ đã giúp tác giả nói lên ước nguyện chân thành của lòng mình: “lòng tôi – mọi người”, “tình tôi – trăm nơi”, “hồn tôi – bao hồn khổ”, thể hiện sự gắn bó sâu sắc trong sâu thẳm tâm hồn. Nếu vế trước là sự xác định của “cái tôi” thì vế sau là “cái ta” của cộng đồng, giai cấp. Điều đó càng chứng tỏ sự nhận thức lớn lao, sâu sắc của nhà thơ về tình hữu ái của những con người cùng khổ. Cái tôi trữ tình đặt mình vào cuộc sống rộng lớn của mọi người ở “trăm nơi”, thấy được ý thức trách nhiệm để “bao hồn khổ” thêm gần gũi nhau trên con đường chiến đấu thoát khỏi bóng tối, thoát khỏi nỗi đau của kiếp nô lệ.
Tố Hữu viết bài thơ này khi còn rất trẻ nhưng sự nhận thức về lẽ sống, về sứ mệnh của người chiến sĩ cũng như của người cầm bút thật cao cả, thiêng liêng nên ý thơ “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” còn nêu bật sức mạnh của tình đoàn kết dân tộc của quần chúng nhân dân một lòng theo Đảng. Nhân vật trữ tình đã đặt mình giữa dòng đời và môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đó, nhà thơ tìm thấy niềm vui và sức mạnh không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm yêu mến, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đó, nhà thơ khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
Đến khổ thơ thứ ba, chúng ta có thể thấy được sự chuyển biến sâu sắc từ lí trí đến tâm hồn, từ trách nhiệm đến tấm lòng, từ nhận thức đến tình cảm của một “cái tôi” đã trưởng thành:
“Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là thanh niên tiêu tư sản:
“Bâng khuâng đứng trước đôi dòng
Chọn một dòng hay để nước trôi đi”
Từ khi được giác ngộ lí tưởng Cộng sản soi lối, nhà thơ đã tìm được con đường đời và con đường thơ. Điều đó có nghĩa là nhà thơ không chỉ có thêm sức sống mới mà còn vượt qua được tình cảm ích kỉ, hẹp hòi quẩn quanh của giai cấp tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với người lao động. Vì thế, tình cảm gắn bó hòa hợp, tình yêu thương quần chúng lao khổ được người thanh niên yêu nước ví như tình yêu với những người ruột thịt trong quan hệ máu mủ thiêng liêng. Phép điệp cấu trúc “Là…của” với nhịp thơ rắn rỏi đã khẳng định đầy tự hào về thành quả của quá trình giác ngộ, chuyển biến trong ý thức và hành động của con người Cách mạng. Liệt kê “ vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu em nhỏ” đã cụ thể hóa hình tượng thơ “bao hồn khổ” ở khổ thơ thứ hai. Điệp từ “là” cùng với các từ “con”, “em”, “anh” và số từ ước lệ “vạn” – chỉ số lượng hết sức đông đảo đã nhấn mạnh, khẳng định tình cảm gia đình đầm ấm, thân thiết. Đây không còn là tâm nguyện gần gũi mà nhận thấy tất cả đã trở thành tất yếu không thể nào thay đổi. Nhà thơ đã coi mình là một thành viên trong gia đình quần chúng cần lao. Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ được biểu hiện xúc động, chân thành khi nói tới những “kiếp phôi pha” . Đó là những kiếp sống mòn mỏi, vô nghĩa – những mảnh đời đói cơm, khát áo, không của nhà, không chốn nương thân. Thành ngữ “cù bất cù bơ” kết hợp với giọng thơ trữ tình đã thể hiện thái độ căm phẫn hiện thực xã hội cũng như sự đồng cảm, thương xót với một giọng điệu cứng rắn mà chân tình.
Những câu thơ cuối có sức lay động sâu xa tới trái tim người đọc bởi đó là tiếng nói phát ra từ một trái tim tuổi trẻ bồng bột, sôi nổi, chân thành, ấm áp tình yêu thương và đầy trách nhiệm đối với cộng đồng giai cấp khi “tôi” đã là “em”, là “anh” của hết thảy những con người bé nhỏ, cùng khổ trong xã hội cũ. Tình thương với mọi người, tình yêu với cộng đồng của Tố Hữu không chung chung, mơ hồ mà là tình cảm gắn bó cụ thể, sâu sắc của những con người trong cùng một gia đình. Với Tố Hữu, họ chình là đối tượng sáng tác chủ yếu, là nguồn sữa vô tận nuôi dưỡng mọi hồn thơ, dẫn dắt ông đi trên con đường Cách mạng đầy gian khổ, hy sinh mà vô cùng vinh quang, rạng rỡ.
Bài thơ chính là niềm vui lớn của tác giả khi được giác ngộ lí tưởng Cộng sản. Nhờ đó, biết gắn bó với nhân dân lao khổ, tạo cho mình một sức mạnh tinh thần to lớn. Tâm trạng hạnh phúc, vui sướng, say mê ấy được diễn tả bằng hệ thống hình ảnh tươi sáng, giọng thơ sảng khoái, giọng thơ dồn dập, sôi nổi, nhịp thơ nhẹ nhàng, sâu lắng cùng với đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp tự sự và bút pháp trữ tình. Với những vần thơ như thế, Tố Hữu đã thể hiện được dấu ấn riêng của một nhà thơ trữ tình – chính trị, nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn trong lòng người đọc và trong thơ ca Cách mạng Việt Nam.
Hồn thơ Tố Hữu, hồn thơ lãng mạn trữ tình xen lẫn những tư tưởng chính trị đầy sâu sắc hiện lên trên từng nét thơ. Không chỉ là tiếng reo vui của niềm hạnh phúc, “Từ ấy” thực sự đã trở thành một bài ca vang lên những nốt nhạc say mê của lẽ sống đẹp giữa cuộc đời, đâu đó tấm lòng cao cả của một chàng trai trẻ gắn bó, đồng cảm với đồng bào, nhân dân cứ vương vấn không thôi trong lòng người đọc.