[Văn mẫu học trò] Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
[Văn mẫu học trò] Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài:
Nguyễn Đình Chiểu là thầy thuốc, một thầy giáo, một vị anh hùng dân tộc nổi tiếng đồng thời cũng là một tác giả với tiếng thơ vang khắp miền lục tỉnh. Trong số những tác phẩm có tiếng vang đó không thể không kể đến tác phẩm “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.
2. Thân bài
2.1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu và văn ông là một tấm gương giàu nghị lực, giàu lòng yêu nước và bất khuất, kiên cường trước kẻ thù xâm lược.
– Văn tế là loại văn bản thường gắn với phong tục tang lễ nhằm bày tỏ lòng tiếc thương đối với người đã mất. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tác phẩm đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ chống giặc cứu nước.
2.2. Phân tích
* Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ
-Bối cảnh thời đại:
” Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”
+ Sự đối lập giữa các thế lực vật chất xâm lược bạo tàn và ý chí, nghị lực, lòng quyết tâm đánh giặc cứu nước.
+ bối cảnh và tình thế căng thẳng của thời đại, đó là thời kỳ bão táp “khổ nhục nhưng vĩ đại”, một cuộc đụng độ giữa thế lực ngoại xâm với ý chí kiên cường bất khuất của dân ta.
+ Câu thứ hai ” Mười năm công vỡ ruộng chưa ắt còn danh nổi như phao” đối lập với ” một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất tiếng vang như mõ” lột tả ý nghĩa khái quát về cái chết bất tử, về tiếng thơm còn mãi muôn đời của đội quân Cần Giuộc.
– Nguồn gốc xuất thân của người nông dân nghĩa sĩ:
+ là những người nông dân nghèo khó, suốt đời cần mẫn, lam lũ không quen với việc nhà binh.
-Sự chuyển biến trong tư tưởng tình cảm
+ Đất nước có ngoại xâm, họ trông đợi triều đình song sự chờ đợi không có hồi âm.
+ Coi kẻ thù như cỏ dại không thể khoan dung
+ Từ nhận thức về một đất nước thống nhất, về trách nhiệm của bản thân, họ tự nguyện sung vào đội quân chiến đấu, trở thành người nghĩa sĩ.
Vẻ đẹp của đội quân áo vải
+ Vũ khí: thô sơ: ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay trái ngược với quân thù là đạn nhỏ đạn to, tàu đồng, súng nổ
+ Khí thế hiên ngang, bất khuất, dũng cảm: không sợ tiếng đạn, đốt nhà dạy đạo, chém đầu quan hai nọ…làm thất điên bát đảo quân thù.
Vẻ đẹp bi tráng
*Tiếng khóc của Nguyễn Đình Chiểu
– Cả bài văn tế là một tiếng khóc dài cho những người chí nguyện chưa thành, những gia đình mất người thân, cho tổ quốc, dân tộc.
– nỗi căm hờn tột độ, niềm cảm phục tự hào đối với những người nông dân áo vải đồng thời là sự biểu dương những công trượng của họ, họ đã bất tử trong lòng dân, trong lòng đất nước.
=> Tiếng khóc không chỉ hướng về người ngã xuống mà còn khích lệ, thúc giục người ở lại bước tiếp. Điều đó khiến bức tượng đài của những người anh hùng nghĩa sĩ tuy thất thế song vẫn hiên ngang bi tráng.
3. Kết bài
Như vậy, với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, nhà văn đã phát hiện và ngợi ca bản chất cao quý, tiềm ẩn sau manh áo vải, sau cuộc đời lam lũ là lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Chỉ đến Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên trong văn học, người nông dân chống ngoại xâm mới chiếm lĩnh trọn vẹn một tác phẩm văn chương và được ngợi ca như một người anh hùng thời đại. “ Trước Nguyễn Đình Chiểu chưa ai làm được điều đó và sau Nguyễn Đình Chiểu một thời gian dài, cũng chưa ai vượt qua được ông. Bởi thế, bài văn tế được xem như một bước phát triển đột xuất trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và trong thơ văn Việt Nam nói chung.
Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Bài văn tham khảo
Nguyễn Đình Chiểu là thầy thuốc, một thầy giáo, một vị anh hùng dân tộc nổi tiếng đồng thời cũng là một tác giả với tiếng thơ vang khắp miền lục tỉnh. Trong số những tác phẩm có tiếng vang đó không thể không kể đến tác phẩm “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương giàu nghị lực, giàu lòng yêu nước và bất khuất, kiên cường trước kẻ thù xâm lược. Khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nổ ra, từ trên đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm thời đại là lòng yêu nước thương dân, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác những tác phẩm xuất sắc đáp ứng nhu cầu của cuộc chiến giữ nước buổi ấy. Thơ văn yêu nước của ông ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta, đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh vì tổ quốc. Người anh hùng nghĩa sĩ đầu tiên đó là những người nông dân yêu nước trong tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Văn tế là loại văn bản thường gắn với phong tục tang lễ nhằm bày tỏ lòng tiếc thương đối với người đã mất. Văn tế thường kể lại cuộc đời công đức phẩm hạnh của người đã mất và bày tỏ tấm lòng xót thương sâu sắc với giọng điệu chung là lâm li, thống thiết, sử dụng nhiều thán từ và những từ ngữ, hình ảnh có giá trị biểu cảm mạnh. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” có thể xem là một trong những bài văn tế hay nhất trong dòng chảy văn học Việt Nam khi lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ chống giặc cứu nước. Mở đầu tác phẩm là câu đối:
” Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”
Với biện pháp nghệ thuật đối lập nhà văn đã nhấn mạnh một bên là sự hiện diện của các thế lực vật chất xâm lược bạo tàn và một bên là ý chí, nghị lực, là lòng quyết tâm đánh giặc cứu nước. Bằng những hình ảnh không gian rộng lớn như đất trời, những từ biểu hiện trạng thái ” rền”, ” tỏ”, tác giả đã tái hiện lại bối cảnh và tình thế căng thẳng của thời đại, đó là thời kỳ bão táp “khổ nhục nhưng vĩ đại”, một cuộc đụng độ giữa thế lực ngoại xâm với ý chí kiên cường bất khuất của dân ta. Câu thứ hai ” Mười năm công vỡ ruộng chưa ắt còn danh nổi như phao” đối lập với ” một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất tiếng vang như mõ” đã lột tả ý nghĩa khái quát về cái chết bất tử, về tiếng thơm còn mãi muôn đời của đội quân Cần Giuộc.
Không phải những nam trang tử hán đầu đội trời chân đạp đất, những con người giàu ý chí đó lại có xuất thân là những người nông dân nghèo khó, suốt đời cần mẫn, lam lũ:
“ Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.”
Hình ảnh quen thuộc của người nông dân Việt Nam hiện lên rõ nét qua câu văn tám chữ “ cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”. Họ cả đời lam lũ, cần cù, bán mặt cho đất bán lưng cho trời nhưng cuộc đời vẫn mãi là một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Người nông dân bắt đầu từ cui cút làm ăn, lo toan, tất tả để rồi kết thúc trong nghèo đói. Dù vậy, họ vẫn thật mộc mạc, chân chất, xem những công việc đồng áng, cày cấy là những chuyện “ quen làm”, chuyện vốn có.
Khi thực dân Pháp xâm lược, những người nông dân với bản chất lương thiện, cần cù, chịu khó đến tội nghiệp ấy bỗng hóa thành người lính can trường. Tay chưa quen cung ngựa, chân chưa bước tới trường nhung nhưng khi “ súng giặc đất rền” làm đảo lộn cuộc sống bình yên thường nhật mà “ trông tin quan như trời hạn trông mưa”, họ sẵn sàng vứt bỏ tay cày, tay cuốc chuyển sang cầm súng mác để gánh vác sứ mệnh dân tộc:
“ Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.”
Từ người nông dân chất phác, lam lũ, họ trở thành người nông dân nghĩa sĩ kiên cường. Từ nỗi lo sợ “ tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng” đến trông chờ “ trông tin quan như trời hạn trông mưa”, họ dần căm giận ngút trời, chỉ muốn “ ăn gan”, “ cắn cổ” quân thù. Quân giặc xâm lược trở thành hoàn cảnh điển hình để người nông dân tự bộc lộ chính mình. Không cam lòng nhìn quê hương bị tàn phá, họ vứt bỏ cuốc cày đến với nghĩa quân, “ chưa quen cung ngựa” vẫn tới trường nhung vì một lòng “ mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Nguyễn Đình Chiểu đã phát hiện tình yêu nước cháy bỏng trong tâm hồn người nông dân và đằng sau dáng người nhỏ bé ấy là cả một nghị lực, một khí phách chiến đấu phi thường, tuy mộc mạc, bộc trực mà rất mạnh mẽ, rất dứt khoát:
“ Nào đợi ai đòi, ai bắt phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Người nghĩa sĩ chẳng cần đợi “ ai đòi, ai bắt”, họ một lòng sẵn sàng, tự nguyện xả thân để cứu dân, cứu nước. Họ cũng “ chẳng thèm” trốn ngược trốn xuôi mà dũng cảm đi lên, kiên cường bất khuất làm một người nông dân nghĩa sĩ dốc hết sức lực “ ra tay bộ hổ”. Những con người ấy, vì nghĩa, vì dân mà trở thành nghĩa quân thì quả thực là rất cao quý, rất đáng trân trọng. Lòng yêu nước nồng nàn chính là động lực để họ ra trận chứ không phải bởi một cơn phấn khích ngẫu hứng nhất thời. Vì thế, họ, cả một đám đông cầm dao, cầm gậy mạnh mẽ xông vào quân giặc:
“ Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dậy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phẫu, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ é sau, trối kệ tàu thiếc; tàu đồng súng nổ.”
Mong manh áo vải, vũ khí thô sơ, người nông dân nghĩa sĩ vẫn hiên ngang, chủ động, tung hoành dọc ngang trong trận đấu không cân sức. Không cân sức là vậy, chỉ có “ ngọn tầm vông”, “ rơm con cúi”, “ lưỡi dao phay” đối lập hoàn toàn với “ tàu thiếc”, “ tàu đồng”, “ súng nổ” của quân giặc, họ vẫn hừng hực khí thế xung trận sục sôi. Có khi “ đánh”, khi “ đốt”, khi “ chém”, có khi “ đạp rào”, “ lướt tới” rồi “ đâm ngang”, “ chém ngược”,…lòng quyết tâm chiến đấu, chiến thắng đã giục giã, thôi thúc từng bước chân, từng hành động của họ. Để rồi, bằng sức mạnh đoàn kết của những tâm hồn quả cảm, đồng tâm hiệp lực, họ đã vẽ nên một bức tranh chiến trận chất ngất tráng khí với các chiến công vang dội “ đốt xong nhà dạy đạo kia”, “ chém rớt đầu quan hai nọ”, “ làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc”…
Người nông dân nghĩa sĩ tuy anh hùng dũng cảm nhưng vẫn còn nôn nóng, bộc phát, và cái kết của họ là sự thất bại dẫn đến cái chết bi thảm. Dù vậy, cái chết ấy là cái chết trong vinh quang xứng đáng với cả một đời anh hùng. Trong cái chết của họ bừng sáng lên lẽ sống “ chết vinh còn hơn sống nhục”:
“ Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; còn hơn chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.”
Cả bài văn tế là một tiếng khóc dài. Đó là tiếng khóc tiếc hận cho những người chí nguyện chưa thành, là tiếng khóc cho những gia đình mất người thân, là tiếng khóc than cho tổ quốc, dân tộc. ” Nước mắt anh lau chẳng ráo” không chỉ trong lòng người mà trong cả cỏ cây, sông núi:
” Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.”
Nhưng, dù nức nở trong tiếng khóc, bài văn tế vẫn không tạo cảm giác bi luỵ bởi lẽ, ngoài sự uất ức nghẹn ngào là nỗi căm hờn tột độ, là niềm cảm phục tự hào đối với những người nông dân áo vải đồng thời là sự biểu dương những công trượng của họ, họ đã bất tử trong lòng dân, trong lòng đất nước. Do đó, tiếng khóc không chỉ hướng về người ngã xuống mà còn khích lệ, thúc giục người ở lại bước tiếp. Điều đó khiến bức tượng đài của những người anh hùng nghĩa sĩ tuy thất thế song vẫn hiên ngang bi tráng:
“ Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.”
Như vậy, với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, nhà văn đã phát hiện và ngợi ca bản chất cao quý, tiềm ẩn sau manh áo vải, sau cuộc đời lam lũ là lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Chỉ đến Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên trong văn học, người nông dân chống ngoại xâm mới chiếm lĩnh trọn vẹn một tác phẩm văn chương và được ngợi ca như một người anh hùng thời đại. “ Trước Nguyễn Đình Chiểu chưa ai làm được điều đó và sau Nguyễn Đình Chiểu một thời gian dài, cũng chưa ai vượt qua được ông. Bởi thế, bài văn tế được xem như một bước phát triển đột xuất trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và trong thơ văn Việt Nam nói chung.