[Văn mẫu học trò] Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác
[Văn mẫu học trò] Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một đại danh y của Đại Việt đồng thời cũng là một nhà văn với nhiều tác phẩm có giá trị, đặc biệt là tác phẩm độc đáo “Thượng kình kí sự”.
– “Thượng kinh kí sự” ghi lại hành trình của ông lên kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Trong đó đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” giàu giá trị hiện thực đã thể hiện một ngòi bút đậm đà, tài hoa và một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn của Nguyễn Hữu Trác.
2. Thân bài
2.1. Cảnh xa hoa nơi phủ chúa
– Khi mới vào phủ
+ ngẫm nghĩ và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ chúa đi qua con đường bên trái, “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chìm kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
+ hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiôm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”.
=> “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”.
– Trong phủ chúa
+ cung điện nguy nga tráng lệ: “Điếm Hậu mã quân túc trực”, Nhà “Đại đường” còn gọi là “Quyển bồng”, “Gác tía”, “Phòng trà”. Tất cả đều lạ, đẹp, sơn son thếp vàng.
=> Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ là những công trình văn hoá nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên. Không chỉ vậy, nó còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê – Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.
+ Phương tiện đi lại của vua chúa, đồ nghi trượng sập, võng điều đỏ, bàn ghế đều vô cùng quý giá, sang trọng, sơn son thếp vàng, là “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
+ Thế tử mặc áo lụa đỏ, ngồi trên sập thiếp vàng. Bên cạnh là ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nộm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Ở đây, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đó”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây!”
+ Đồ ăn là của ngôn vật lạ, mâm vàng chén bạc.
=>”Tôi bảy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
2.2. Danh y chân chính
– đấu tranh tư tưởng về vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn
– Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ồng nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp.
– có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bối dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên..”.
3. Kết bài
Vào phủ chúa Trịnh đã cho ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đạt lên trên hết, lên trước hết. Đồng thời, đoạn văn rất giàu tính hiện thực, phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê – Trịnh. Từ đó tạo nên giá trị lịch sử to lớn cho tác phẩm và sức sống cho tên tuổi Lê Hữu Trác.
Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
Làm bài
Mọi người biết đến Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một đại danh y của Đại Việt. Tuy nhiên, ông còn là một nhà văn với nhiều tác phẩm có giá trị, đặc biệt là tác phẩm độc đáo “Thượng kình kí sự”. “Thượng kinh kí sự” ghi lại hành trình của ông lên kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Trong đó đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” giàu giá trị hiện thực đã thể hiện một ngòi bút đậm đà, tài hoa và một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn của Nguyễn Hữu Trác.
Đây là lần đầu tiên Lê Hữu Trác được vào phủ chúa Trịnh. Do đó ông đã ngẫm nghĩ và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ở đó có một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chìm kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Ở nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiôm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”. Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.!”
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá “kì lạ”. Nhà “Đại đường” còn gọi là “Quyển bồng”. Là cái lầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “Phòng trà”. Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hoá nghộ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên. Không chỉ vậy, nó còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê – Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.
Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu, đồ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ồng thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nộm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đó”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây!”
Tại điếm “Hậu mã” lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn” nhưng “mâm vàng, chén bực, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Ông thầy thuốc mà danh tiếng “như sấm dộng” đã suy nghĩ và nói : “Tôi bảy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao vê núi được”, về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. “Lưng không uốn, lộc nên từ là thế!”. Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ồng nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung, hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bối dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên..”.
Vào phủ chúa Trịnh đã cho ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đạt lên trên hết, lên trước hết. Đồng thời, đoạn văn rất giàu tính hiện thực, phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê – Trịnh. Từ đó tạo nên giá trị lịch sử to lớn cho tác phẩm và sức sống cho tên tuổi Lê Hữu Trác.
Bùi Thị Chung