[Văn mẫu học trò] Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Tú Xương


[Văn mẫu học trò] Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Tú Xương

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

Trần Tế Xương thường gọi là Tú Xương quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định nay thuộc phường Vị Hoàng thành phố Nam Định. Tú Xương chỉ sống 37 năm nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành bất tử, đặc biệt là về mảng thơ trào phúng. Trong số những bài thơ trào phúng ấy không thể không kể đến tác phẩm “ Vịnh khoa thi Hương”.

2. Thân bài

2.1. Khái quát về tác phẩm

“ Vịnh khoa thi Hương” có bản ghi là “ Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” thể hiện thái độ mỉa mai căm uất của Tú Xương đối với chế độ thi cử đương thời và cũng là đối với con đường thi cử gian nan, lận đận của riêng ông.

=> tiếng cười châm biếm sâu cay trước thời cuộc và nỗi ngậm ngùi về thân phận mình, về những giá trị bị đảo lộn.

2.2. Phân tích

– Hai câu đề:

+ khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1897) khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi ở Hà Nội bị bãi bỏ và các sĩ tử phải xuống thi chung ở trường Nam Định.

+ quang cảnh lộn xộn, nhốn nháo

+ Từ “ Nhà nước” ám chỉ chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp. Cái lệ “ ba năm mở một khoa” vốn là quy định của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đặt ra đã từ lâu. Do vậy, mới mở đầu mà Tú Xương đã tạo nên sự đối lập, mâu thuẫn tạo nên tiếng cười trào phúng sâu cay.

-Hai câu thực:

+ kết cấu đảo ngữ đưa tính từ “ lôi thôi” và “ ậm oẹ” lên vị trí đầu câu giúp đặc tả cảnh tượng đáng buồn của một trường thi ở giai đoạn chữ Hán đang bị chữ quốc ngữ đẩy lùi.

+ hành động mang vác lỉnh kỉnh, lôi thôi, chen lấn, xô đẩy như một đám đông hỗn loạn ngoài đường ngoài chợ chứ không phải ở chốn trường thi vốn dĩ uy nghiêm.

+ chốn quan trường với tiếng loa gọi thí sinh phải cố thét lên cho thật to, thành ậm oẹ, chẳng ra đâu vào đâu cả nên hoá buồn cười.

Hai câu luận

+ Để chứng tỏ sự quan tâm của “mẫu quốc”, tên toàn quyền Pôn Đu-me (Paul Doumer) cùng vợ đã đến dự khai mạc trường thi cho thêm phần long trọng.

+ Nỗi nhục mất nước qua hai hình ảnh tương phản là: Cờ của triều đình phong kiến bán nước đối với Váy của vợ tên quan thực dần cướp nước.

>> Xem thêm:  Phân tích đoạn 1 bài Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

quốc thể bị xúc phạm, khóc vì nỗi nhục nô lệ của giới trí thức nói riêng và cả dân tộc nói chung.

Hai câu kết

+ lời cảm thán làm rung động lí trí và tình cảm người trong cuộc cũng như người ngoài cuộc.

+ “ Nhân tài đất Bắc” là cách gọi mỉa mai với đám “ Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” đang chen chúc chốn trường thi nhốn nháo đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trong đám đông ấy, liệu có ai nghĩ tới cảnh nước mất nhà tan hay chỉ chạy theo công danh hão huyền, xa vời?

3. Kết bài:

“Vịnh khoa thi Hương” là sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ giữa tính hiện thực và tính trữ tình, giữa tiếng cười châm biếm mang ý nghĩa xã hội sâu xa và tiếng khóc ngậm ngùi, nuối tiếc cho nền Hán học suy tàn trước làn sóng văn hoá phương Tây đang tràn vào nước ta theo bước chân của đạo quân viễn chinh xâm lược Pháp. Có lẽ vì vậy mà cho đến ngày hôm nay, tiếng thơ Tú Xương vẫn còn khắc sâu mãi trong tâm trí bao người.

van mau hoc tro phan tich bai tho vinh khoa thi huong cua tu xuong 1 - [Văn mẫu học trò] Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Tú Xương

Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương

Bài văn tham khảo

Trần Tế Xương thường gọi là Tú Xương quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định nay thuộc phường Vị Hoàng thành phố Nam Định. Tú Xương chỉ sống 37 năm nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành bất tử, đặc biệt là về mảng thơ trào phúng. Trong số những bài thơ trào phúng ấy không thể không kể đến tác phẩm “ Vịnh khoa thi Hương”.

“ Vịnh khoa thi Hương” có bản ghi là “ Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là bài thơ thể hiện thái độ mỉa mai căm uất của Tú Xương đối với chế độ thi cử đương thời và cũng là đối với con đường thi cử gian nan, lận đận của riêng ông. Qua bài thơ, tác giả đã tạo nên tiếng cười châm biếm sâu cay trước thời cuộc lúc bấy giờ đầy những nhốn nháo, ô hợp và ẩn sau đó là nỗi ngậm ngùi về thân phận mình, về những giá trị bị đảo lộn:

“ Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Long cắm rợp trời quan sứ đến,

Váy lê quét đất mụ đầm ra.

Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Bài thơ thực chất là bức biếm họa toàn cảnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1897) ở nước ta. Khi ấy, thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi ở Hà Nội bị bãi bỏ và các sĩ tử phải xuống thi chung ở trường Nam Định. Chính vì thế mà quang cảnh lộn xộn, nhốn nháo, trái hẳn với không khí trang nghiêm vốn có chốn cửa Khổng sân Trình. Không chỉ vậy, giọng điệu châm biếm đã xuất hiện ngay từ chữ đầu tiên của bài thơ “ Nhà nước” ám chỉ chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp chứ không phải triều đình bù nhìn nhà Nguyễn. Cái lệ “ ba năm mở một khoa” vốn là quy định của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đặt ra đã từ lâu. Do vậy, mới mở đầu mà Tú Xương đã tạo nên sự đối lập, mâu thuẫn tạo nên tiếng cười trào phúng sâu cay:

>> Xem thêm:  Nhận định về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, ông Phạm Văn Đồng cho rằng đó là "Khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang". Anh (chị) hăy phân tích bài văn để làm sáng tỏ nhận định trên

“ Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà. “

Nếu hai câu đề là lời thông báo về thực trạng nhốn nháo, nực cười, hỗn độn của kì thi trang nghiêm thì đến hai câu thực, tác giả đi vào khắc họa chi tiết hình ảnh nhốn nháo ấy:

“ Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.”

Với kết cấu đảo ngữ đưa tính từ “ lôi thôi” và “ ậm oẹ” lên vị trí đầu câu, Tú xương đã đặc tả cảnh tượng đáng buồn của một trường thi ở giai đoạn chữ Hán đang bị chữ quốc ngữ đẩy lùi. Câu thơ “ lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” gợi về hình ảnh đẹp của ngày xưa khi sĩ tử đi thi phải mang theo lều chõng, cơm nước, tráp để đựng bút, giấy, nghiên mực… và một ống quyển để đựng quyển thi. Lọ ở đây là lọ nước uống. Nhưng giờ đây, nó được đưa vào trang thơ Tú Xương tạo nên hành động mang vác lỉnh kỉnh, lôi thôi, chen lấn, xô đẩy như một đám đông hỗn loạn ngoài đường ngoài chợ chứ không phải ở chốn trường thi vốn dĩ uy nghiêm.

Sĩ tử thảm hại lôi thôi và chốn quan trường cũng chẳng hơn gì. Tiếng loa gọi thí sinh lần lượt nhập trường thi lẽ ra phải rõ ràng, dõng dạc nhưng vì quá ồn ào, lộn xộn nên quan xướng danh phải cố thét lên cho thật to, riết rồi thành ậm oẹ, chẳng ra đâu vào đâu cả nên hoá buồn cười. Như vậy, một cảnh tưởng như trang nghiêm, trang trọng lại hoá phiên chợ ồn ào, không kỉ cương không phép tắc.

>> Xem thêm:  Thuyết minh về Chùa Keo

Tiếp theo đến hai câu luận, nhà thơ viết:

“ Long cắm rợp trời quan sứ đến,

Váy lê quét đất mụ đầm ra.”

Bằng bút pháp trào lộng sắc sảo, Tú Xương tiếp tục tả thực cái “chợ phiên” chữ nghĩa ấy với những chi tiết vô cùng độc đáo. Biết bao là trớ trêu, ngậm ngùi ẩn chứa trong khung cảnh ấy. Để chứng tỏ sự quan tâm của “mẫu quốc”, tên toàn quyền Pôn Đu-me (Paul Doumer) cùng vợ đã đến dự khai mạc trường thi cho thêm phần long trọng. Nhưng con mắt tinh đời và tâm trạng phẫn uất của Tú Xương đã giúp mọi người nhận ra nỗi nhục mất nước qua hai hình ảnh tương phản trong hai câu thơ đối nhau chan chát là: Cờ của triều đình phong kiến bán nước đối với Váy của vợ tên quan thực dần cướp nước. Ngậm ngùi, cay đắng biết bao nhiêu! Dẫu không có giọt nước mắt nào nhưng người đọc thấy rõ là nhà thơ đang cắn răng cố nuốt tiếng khóc vào trong, ông khóc vì quốc thể bị xúc phạm, khóc vì nỗi nhục nô lệ của giới trí thức nói riêng và cả dân tộc nói chung.

“ Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Nỗi ngậm ngùi bị dồn nén cao độ đã bật thốt thành lời cảm thán làm rung động lí trí và tình cảm người trong cuộc cũng như người ngoài cuộc. “ Nhân tài đất Bắc” là cách gọi mỉa mai của Tú Xương đối với đám “ Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” đang chen chúc chốn trường thi nhốn nháo đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trong đám đông mang danh sĩ tử ấy liêu có ai nghĩ tới cảnh nước mất nhà tan hay tất cả chỉ tất tả chạy theo công danh mờ ảo, hảo huyền?

“ Vịnh khoa thi Hương” là sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ giữa tính hiện thực và tính trữ tình, giữa tiếng cười châm biếm mang ý nghĩa xã hội sâu xa và tiếng khóc ngậm ngùi, nuối tiếc cho nền Hán học suy tàn trước làn sóng văn hoá phương Tây đang tràn vào nước ta theo bước chân của đạo quân viễn chinh xâm lược Pháp. Có lẽ vì vậy mà cho đến ngày hôm nay, tiếng thơ Tú Xương vẫn còn khắc sâu mãi trong tâm trí bao người.

Bài viết liên quan