Đề số 21: Em hãy trình bày những suy nghĩ của mình về số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ qua những bài ca dao than thân – Văn mẫu lớp 7
Đề số 21: Em hãy trình bày những suy nghĩ của mình về số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ qua những bài ca dao than thân – Văn mẫu lớp 7
Hướng dẫn
DÀN Ý:
1. Đặt vấn đề:
– Ca dao là tiếng tơ đàn muôn điệu của tâm hồn quần chúng
– Một trong những cung bậc da diết nhất của tiếng tơ đàn ấy là những bài ca viết về thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa.
2. Giải quyết vấn đề:
1. Số phận của người phụ nữ:
– Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ luôn bị đối xử bất công, tàn nhẫn, bị bóc lột sức lao động, bị chà đạp về nhân phẩm.
– Người phụ nữ không được tự mình quyết định hạnh phúc cho mình, luôn phải sống lệ thuộc vào người khác, chịu nhiều bất công, thiệt thòi trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
– Nguyên nhân là do bản chất xã hội phong kiến với ý thức hệ Nho giáo không đề cao vai trò của người phụ nữ, với những quan niệm trọng nam khinh nữ rất bất công: Nhất nam viết hữu, thập nữ siết cô; tam tòng, tứ đức…
2. Phẩm chất:
– Người phụ nữ luôn ý thức được vẻ đẹp của mình, phẩm giá của mình.
– Họ là những người cần cù, chăm chỉ, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
– Họ luôn khao khát yêu thương và hạnh phúc mãnh liệt.
– Ở họ luôn tiềm tàng một sức sống mạnh mẽ, một ý thức phản kháng quyết liệt.
3. Kết thúc vấn đề:
– Số phận và phẩm chất của người phụ nữ là một vấn đề mang giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc.
– Từ thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa, ta càng thấy rõ hơn vai trò, vị thế, vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
BÀI LÀM
Đã có ai từng dành một chút thời gian trong cuộc sống bộn bề của mình để khám phá bí ẩn nằm sâu trong đôi mắt đầy hoài niệm của bà, và nỗi đắng cay in hằn trên đôi tay chai sần của mẹ? Đã có ai trưởng thành mà chưa một lần tự hỏi tại sao tiếng ru khắc khoải bên nối lại đưa ta vào giấc ngủ êm đềm, nuôi ta lớn lên cùng những mộng mơ tuổi trẻ?
Ta sẽ tìm được câu trả lời trong ca dao. Trải qua bao nhiêu năm tháng, thời gian với những đổi thay, những biến cố, ca dao vẫn vẹn nguyên là một bức tranh cuộc sống “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”… Từ ca dao, hiện hữu trước mắt ta cái xã hội tối tăm cách đây hàng chục thế kỉ, và những oan khiên mà nó mang lại khiến người ta phải rơi nước mắt. Nhờ ca dao, ta biết cảm thương cho kiếp người đi trước, những người bị nhấn chìm trong cuộc sống lầm than, từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi họ chưa một lần được thấy ánh mặt trời đích thực. Sống trong ca dao, ta như được cùng mẹ, cùng bà, cùng những người phụ nữ thời xưa trải qua bao nhiêu thăng trầm sóng gió của cuộc đời, để rồi nhận ra một giá trị thiêng liêng: lấp lánh trong màn đêm đen tối, vượt lên trên những khổ đau, là vẻ đẹp tuyệt vời muôn đời vĩnh cửu, mãi mãi được trân trọng, mãi mãi được ngợi ca.
Chẳng biết tự bao giờ phụ nữ được coi là phận yếu, chỉ biết làm việc nhà, phụng dưỡng cha mẹ, phục vụ chồng và nuôi con. Nhất là trong thời loạn lạc chiến tranh triền miên, phụ nữ cũng “tự nhiên” trở thành phần thấp hèn, hạng tiểu nhân, không giúp ích được gì cho giang san xã tắc. Phụ nữ bị coi thường ngày trong gia đình: “nhất nam viết hữu, thập nữ siết cổ”, nên hiển nhiên ra ngoài xã hội họ bị đày đọa,vùi dập, cuộc đời chỉ như “hoa trôi man mác”, vô định. Đau khổ ấy cứ đeo đẳng hàng ngàn mảnh đời bé nhỏ, trở thành nỗi ám ảnh day dứt, để rồi đâu đâu cũng vang lên tiếng than thân, oán trách, mà đến vài trăm năm sau, ta vẫn còn được nghe qua ca dao!
Một tập tục mê tín dị đoan, một cảnh tượng thường thấy trong xã hội xưa, mà ngày nay tàn dư của nó vẫn còn vương vấn ở nhiều dân tộc thiểu số- tục lệ tảo hôn:
Bông hồng công chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi cho tôi mượn cái gàu sòng
Để tôi tát nước với chồng tôi lên.
Ân trong lời lẽ hài hước của bài ca dao, là một niềm chua xót! Tải thay cho người thiếu nữ khi tuổi xuân chưa phai mà cuộc đời đã bị ràng buộc một cách đầy cay đắng: phải lấy một đứa trẻ con làm chồng. Đằng sau lễ cưới được cho là “hợp pháp” ấy chẳng qua chỉ là một cuộc trao đổi không hơn: cha mẹ cô gái được trả một món tiền kha khá, và đổi lại, gia đình “nhà chồng có thêm người ở với danh nghĩa “con dâu”. Hai bên thông gia nào có mệnh hệ chi, chỉ có người phụ nữ là chuốc lấy mọi gánh nặng khổ đau. Cả ngày lẫn đêm làm việc quần quật không công. Quan niệm “xuất giá tòng phu” và lòng trung hiếu với cha mẹ đã buộc người con gái phải chấp nhận hi sinh cả một đời xuân xanh để phục vụ cho “ông tướng con” ấy. Đi chơi với chồng mà tay bằng tay bế, ăn cơm cùng chồng mà phải mớm từng hạt dỗ dành, nằm cạnh chồng mà nước mắt cứ rơi…Còn gì đau khổ hơn khi phải từ bỏ tình yêu, rời xa những niềm vui cuộc sống để vùi thân mình vào chốn cực nhục, rôi nổi túi hô dày vò cứ tăng dần lên theo ngày tháng, và người con gái xuân sắc với tấm lòng phơi phới ngày nào chỉ còn lại thân xác héo hon, phai tàn….
Chồng già vợ trẻ như hoa
Vợ già chồng trẻ như ma lạc mồ
Có người chồng “vắt mũi chưa sạch” là một nỗi đau nhức nhối,. nhưng những người phụ nữ bị ép gả khi chưa đến tuổi thiếu niên thì cuộc đời cũng u ám đâu có kém gì:
Thân em mười sáu tuổi đầu
Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người
Nói ra sợ chị em cười
Năm ba chuyện thảm chín mười chuyện cay
Những “chuyện thảm”, “chuyện cay gì đổ ập lên dầu cô gái ấy? Ngày ngày vất vả cày cấy ngoài đồng, đêm về thì một mình một manh chiếu rách nằm co ro…Có những đêm thức trắng loanh quanh gà với vịt, heo với chó, việc vặt trong nhà chạy không bao giờ hết. Rồi chịu cả sự hành hạ, tra tấn đủ đường của mẹ chồng: câu chuyện mẹ chồng nàng dâu đã trở thành bi kịch muôn thuở! Ăn bát cơm cũng chẳng xong, nói gì đến chuyện sắm sửa cho bản thân, đến nỗi người con gái ấy phải đau đớn mà thốt lên rằng:
Bướm vàng đậu đọt mù u
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn…
Làm thân con gái sao mà lắm chuân chuyên! Xinh đẹp để làm chi, duyên dáng cũng chẳng cứu vớt người phụ nữ ra khỏi kiếp đời bất hạnh. Bướm vàng cũng chỉ đậu đọt mù u mà thôi. Ngày ấy người ta cần gì nhan sắc, người ta đâu có chịu mất tiền để mua vật trang trí. Người ta chỉ cần những kẻ chịu khó làm việc, những kẻ người ta có thể thoải mái hành hạ mà không bị mang tiếng với người đời. Và người ta chọn người phụ nữ, vốn từ khi sinh ra đã mang địa vị thấp kém hèn hạ.
Vì đâu mà những người phụ nữ luôn là nạn nhân từ bi kịch của những cuộc hôn nhân đổi chác? Bởi xã hội mà vị trí của đồng tiền được đặt cao hơn tính mạng, nhân phẩm con người không cho người ta có quyền lựa chọn. Kì lạ thay, những gia đình có con gái toàn là gia đình nghèo khổ. Và những bậc cha mẹ đáng kính, để có tiền trang trải cuộc sống, đã nhân tâm bán con gái mình cho nhà quyền quý, nhân tâm đứng nhìn giọt máu họ mang nặng đẻ đau phải sống cuộc đời nô lệ.
Biết thuở nào con cá nhào khỏi cực
Biết thuở nào cho hết cực thân em
Chỉ xoay quanh định kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy cũng có cả ngàn bi kịch. Bắt đầu từ những bà mẹ kén chọn:
Trăng khuyết rồi trăng lại tròn
Mụ già kén rể con còn ế lâu
Người con gái không bao giờ có quyền tự đi tìm tình yêu cho mình. Cuộc đời họ “lụa bến cắm sào”, tất tần tật là “chờ xem phụ mẫu định nơi nào sẽ hay”.
Hôn nhân chỉ có thể diễn ra khi đã thực hiện xong đầy đủ các khâu từ mối lái đến xem mặt, rồi thử thách,…và vô hình trung người con gái trở thành món hàng đang chờ người mua với giá cao nhất, Nhưng chẳng có nhà nào chịu nổi sự kén chọn ấy đâu, vì phụ nữ đâu có giá đến mức người ta phải bỏ hàng năm trời đeo đuổi. Có đẹp đến đâu có chăng cũng chỉ là sở thích nhất thời của bọn nhà giàu đa tình phong lưu. Cuối cùng thì những cô gái đành ngậm ngùi lỡ duyên:
Cha mẹ em cho em sang chiếc đò nghiêng
Đò trùng triềng đôi mạn em ôm duyên trở về.
Hay::
Gió đưa tàu chuối tan tành
Em đem duyên đi bán bốn cửa thành không ai mua.
Gái lỡ duyên thì mòn mỏi đợi chờ, phận có chồng thì chịu trăm bể khổ. Từ những chuyện trao thân nhầm chỗ, vừa đáng cười nhưng cũng muốn bật khóc:
Tưởng lấy anh cho lành manh áo
Hay đâu lấy anh rồi bán áo nuôi anh
đến sự thất vọng trước những người chồng vô dụng, không gia trưởng, không độc ác nhưng trẻ con và ngớ ngẩn:
Chông người đi ngược về xuôi
Chồng tôi nằm bếp thò đuôi ra ngoài
Chống người các giáo săn beo
Chồng em vác đũa săn mèo khắp sân.
Đau đớn nhất là người phụ nữ luôn luôn bị ghẻ lạnh trong gia • đình nhà chồng. Gạt sang bên cạnh cuộc hôn nhân không tình yêu, nhưng dù cố gắng thế nào họ vẫn bị đối xử tệ bạc, từ mẹ chồng thì không cần nói, nhưng chính sự xua đuổi của người chồng mới khiến họ quặn thắt nhói đau. Họ đang có gia đình bỗng nhiên đến ở một nơi lạ hoắc lạ – huơ, không người thân, không chỗ dựa.
Làm chi thiết phận hồng nhan
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.
Lấy chồng mà có cũng như không. Vậy thì đời người phụ nữ còn cứu vớt lại được gì? Trốn chẳng được, chết chăng xong. Tâm hồn người phụ nữ chết lịm trong phân làn dâu, vô hồn, vô cảm với những lời chửi mắng, những trận đòn đau, những ghen tuông ghi bị giận hờn vô cớ. Họ nuốt đắng cay để sống và khi chết đi vẫn mang theo oan trái không bao giờ được rửa sạch.
Tạm gác lại số phận người phụ nữ trong các mối quan hệ gia đình, ta hãy đến với những tâm sự của họ trong đời thường. Họ than với trời với đất về cuộc đời bị lệ thuộc, long đong: con đường dẫn đến tương lai cứ mịt mờ tăm tối. Mọi thứ đều bị kìm hãm bởi thân phận hèn kém: sinh ra do sự không may, cả đời vất vả vẫn là trắng tay
Trong ca dao xuất hiện một loạt câu bắt đầu bằng hai tiếng “Thân em”. Hiện tượng ấy chứng tỏ nỗi đau cứ chất chuồng, dai dẳng đeo bán, và chắc chắn sẽ không dứt ra khỏi cuộc đời người phụ nữ cho đến khi nào một tư tưởng mới đến được với những bộ óc phong kiến tài nhẫn, bất công.
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Cuộc đời người phụ nữ ngắn ngủi như giá trị sử dụng của một món hàng tầm thường, rẻ mạt. Ai cũng có thể mua, cũng có thể tranh giành, xâu xé. Phụ nữ không có quyền nắm giữ vận mệnh, quyền định đoạt nằm trong tay kẻ khác. Biết làm gì hơn ngoài việc cam chịu, phản kháng chỉ còn đường chết mà thôi.
Phụ nữ không những bị lệ thuộc, nhà còn bị dẫm đạp, vùi dập. Chế độ phong kiến đối xử với người phụ nữ như tên chủ bất nhân đè đầu cưỡi cô con vật đang ngày đêm oằn lưng hầu hạ. Người phụ nữ là điều tệ hại nhất trong vô số những điều tệ hại, bị người đời khinh bỉ, cợt nhả:
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân
Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không nhấc nổi mình mà bay
Thân em như lá đài bi
Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương
Nhưng ít ra số phận cũng không quá phũ phàng nghiệt ngã. Những người phụ nữ vẫn giữ được nhiều phẩm chất đáng được trân trọng ngợi ca. Họ không bị thân phận và cuộc đời cơ cực làm cho hèn mọn giống như những kẻ đang ngày đêm đẫm đạp lên họ. Vẻ đẹp của họ không thể làm bừng sáng cả hiện thực tăm tối, không thể thức tỉnh suy nghĩ sai lầm nông cạn của chế độ trọng nam khinh nữ, nhưng đã làm cho trái tim của người thời nay rung động, yêu mến.
Vì bị ép duyên, vì chẳng bao giờ những người phụ nữ có cơ hội tìm đến với tình yêu đích thực của đời mình, nên tự trong sâu thẳm trái tim họ luôn nhem nhóm một ngọn lửa khao khát tình yêu. Họ an ủi lòng mình bằng niềm khao khát ấy. Biết là không thực hiện được nhưng vẫn ước mơ, vẫn hi vọng:
Ước gì anh hóa ra gương
Để cho em cứ ngày thường em soi
Ước gì anh hóa ra cơi
Để cho em đựng cau tươi trầu vàng
Khao khát tình yêu mãnh liệt đến mức hóa thành ước mong thầm | lặng. Sống với một tình yêu xa vời nhưng luôn hiện hữu trong tim còn | hơn chỉ có một mình với nỗi đau bao trùm. Ước mơ giản đơn của người phụ nữ, là có một gia đình êm ấm, gắn bó, chứ không phải hiện thực mà họ đang phải trải qua.
Còn những cô thôn nữ chưa phải nếm mùi vị cay đắng do lễ giáo phong kiến đem lại, thì vẫn hân hoan trong tình yêu. Sự chủ động là một nét mới ở họ:
Ai lên nhắn nhủ lời lên
Lời chung thăm thây mẹ lời riêng thăm chàng
Một lời tỏ tình tế nhị mà dễ thương, ai mà không yêu cho được. Tình cảm của người phụ nữ luôn “sâu sắc như cơi đựng trầu”, chứ không nông cạn dễ đổi thay như đàn ông. Chỉ có điều trong xã hội ngày xưa thì biển tình cảm mênh mông ấy ít có dịp được thể hiện vì những rào cản vô lí và oan nghiệt.
Những người phụ nữ luôn tự ý thức được vẻ đẹp của mình. Có gì trong “tấm lụa đào”, “giếng”, “lá đài bi”? Người con gái như tấm lụa đào hây hây má phấn, dịu dàng, mềm mại, với tấm lòng trắng trong mát lành như nước giếng, và cũng phải kiêu hãnh mạnh mẽ lắm mới so sánh mình với lá đài bi. Rõ ràng là vẻ đẹp và nỗi đau luôn song hành. “Đẹp” ở đây là về nhân cách, phẩm chất chứ không phải vẻ bề ngoài. Sự thật luôn luôn cho thấy, đâu phải chỉ mỗi hồng nhan là mệnh bạc?
Thân em như thể trăng rằm
Mây đen có phủ chẳng làm giá trong.
Bắt đầu bằng “Thân em”, nhưng không còn là lời than sầu não nữa, mà là một lời tự ngợi ca vẻ đẹp. Rạng ngời như ánh trăng đêm rằm. Dù bao tai ương hiểm họa có ập đến, thì vẻ đẹp vẫn trường tồn, và không thế lực hắc ám nào có thể xóa mờ. Mặt trăng là duy nhất, dù tròn hay khuyết thì trăng vẫn sáng một màu ngọt lịm làm say mê làng người. Đêm đen nhường chỗ cho ánh sáng tỏa ra từ nhân cách con người: đó là giá trị đích thực và cũng là niềm mơ ước của những người phụ nữ.
Dù bị đối xử tệ bạc, nhưng lòng thủy chung, đức hi sinh, tình yêu thương của người phụ nữ không bao giờ thay đổi, từ xưa đến nay. Đó là lòng thờ kính mẹ cha:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
Con gái về nhà chồng là con của người ta, nhưng chẳng có người con hiếu thảo nào đi xa lại không nhớ về quê mẹ. Dù mẹ bán con, thì suốt đời vẫn là mẹ nuôi dưỡng mình khôn lớn. Người con gái luôn giữ trọn đạo hiếu với mẹ cha, lo không biết mẹ cha khỏe mạnh hay đau yếu, trách phận mình không thể về thăm nhà. Gia đình vẫn quan trọng đối với mỗi người phụ nữ, họ không hề oán hận dù chính những người ruột thịt đã gián tiếp đây họ vào tân khổ đau
Em buôn bán nuôi ai dầm sương phản mại
Em buôn bán nuôi cha mẹ già nào nại tấm thân…
Đó là những đứa con. Còn tấm lòng của người mẹ?
Con ơi con nín đi con
Cha con vui thú nước non quê người
Đôi nơi kẻ khóc người cười
Chẳng qua thân mẹ như đời thờn bơn
Nỗi đau của những người phụ nữ xa chồng còm cõi nuôi con một mình, đi cả vào tiếng ru. Than với con thơ thì nỗi đau càng đầy, vì nó đâu hay biết, nhìn gương mặt bé bỏng ngủ say mà chỉ càng thấy t mình, thương con. Ca dao không chỉ thể hiện vẻ đẹp của những người phụ nữ thuở. xưa, mà người phụ nữ này cũng được ngợi ca. Bà mẹ cổ hủ phong kiến không còn nữa, thay vào đó là hình ảnh người mẹ tần tảo, cần mẫn đưa nôi ru con vào giấc ngủ:
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chảy thức đủ năm canh
Ru con a hả a hà
Con nín mẹ hả, con la mẹ buồn
Tình yêu thương của người phụ nữ không đại dương nào chứa được, và cũng không bút nào viết hết. Sau thương cha mẹ, thương con, là tình nghĩa son sắt thủy chung với chồng. Dường như người phụ nữ được sinh ra để yêu thương. Giá như tình yêu với chồng của người phụ nữ được thấu hiểu, được đền đáp thì hay biết mấy
Chàng ơi chớ bực sầu tư
Khi xưa có mẹ, bây chừ có em.
Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Người phụ nữ, cùng với lòng yêu thương không bao giờ vơi cạn, sẵn sàng là chỗ dựa, niềm an ủi cho người chồng. Hạnh phúc là được cùng nhau san sẻ gánh nặng, nghèo đói có nhau, “đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui”. Thương chồng bắt nguồn từ chịu đựng gian khổ để nuôi chồng:
Vì chàng thiếp phải bắt cua
Những như thân thiệp thì mua mấy đồng
và cao hơn nữa là chấp nhận hi sinh để níu giữ tình cảm gia đình:
Tép đồng ăn với rau mưng
Chồng ăn vợ nhịn xin đừng bỏ nhau.
Người phụ nữ mãi giữ một tấm lòng son sắt thủy chung, dù cuộc đời có đến ba bảy lần chồng. Dù bao nhiêu biến cố có ập đến, thì tấm lòng người phụ nữ vẫn vẹn nguyên không đổi:
Vái trời cho động vuông tròn
Trăm năm giữ vẹn lòng son cùng chàng.
Đâu đó bên cạnh những gia đình đầm ấm, là những cuộc chia li đầy nước mắt. Chồng đi thi bám đuổi công danh sự nghiệp, người vợ một
ông sống trong đợi chờ nhớ mong, hi vọng có ngày vinh hiển, để chẳng khổ công những ngày “đĩa dầu hao thiếp rót, ngọn đèn mờ thiếp khêu”:
Khuyên chàng học lấy chữ nho
Chín trăng em đợi mười thu em chờ
Người chồng đi lính, người phụ nữ cô đơn đối chiếu lạnh, ngày ngày bồng con ngóng trông cùng nỗi lo lắng khôn nguôi. Rồi những giây phút chia li ập đến mà hạnh phúc thì chưa thấy đâu:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Cho anh đi trẩy nước non Cao Bằng…
Trong ca dao, ta tìm thấy tất cả, hiện thực xã hội thối nát bất công, số phận nghiệt ngã của những người phụ nữ, và cuộc đấu tranh thầm lặng của họ đằng sau cuộc sống đầy mưu mẹo lừa lọc để bảo vệ vẻ đẹp vĩnh cửu, tình yêu và niềm khát khao được sống.
Ca dao vẫn tồn tại đến ngày nay, nhưng ngày nay thì không ai viết nên ca dao nữa. Xã hội đổi mới tốt đẹp hơn không khiến nhiều người phụ nữ phải than thân như trước, nhưng phụ nữ của thời đại mới vẫn giữ trọn vẹn vẻ đẹp truyền thống. Và sự thật là, chính phụ nữ lại là những người làm nên lịch sử…
Theo Vanbantailieu.com