Phân tích tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong “bình ngô đại cáo”


Đề bài: phân tích tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong “Bình ngô đại cáo”

Nguyễn Trãi là một tác giả lớn, có nhiều sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. Nhưng tác phẩm nổi tiếng và được bạn đọc biết đến nhiều nhất chính là “Bình Ngô đại cáo”. Đây là sáng tác được Nguyễn Trãi thừa lệnh của Lê Lợi sau chiến thắng giăc Minh, nó có giá trị như một bản Tuyên ngôn độc lập.

“Bình Ngô đại cáo” được viết vào tháng chạp, năm Đinh Mùi. Bài cáo đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc cũng như lời răn đe của người dân Việt đến những kẻ có ý đồ xâm chiếm nước Nam. Đoạn trích thấm đẫm giá trị lịch sử, nghệ thuật và nội dung sâu sắc.

Giá trị nhân đạo được thể hiện rõ nét trong 10 câu đầu của bài thơ:

“Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau

Song hào kiệt thời nào cũng có.”

Khi nhắc tới dân tộc

“Đại Cáo bình ngô” có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập, được viết theo thể cáo. Cáo là một thể nghị luận được vua chúa sử dụng để trình bày một chủ trương, một sự nghiêp hay một tuyên bố nào đó cho mọi người.

Hai câu thơ đầu của “Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến, là linh hồn của bài cáo

Nhà văn định nghĩa từ nhân nghĩa như sau: Nhân nghĩa đó là một tư tưởng của dân tộc đã được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Nói tới mục đích của nhân nghĩa thì tác giả khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc của một đất nước là độc lập, tự tôn dân tộc, quốc gia, còn hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc,đau thương.

>> Xem thêm:  Tổng hợp nhiều bài văn mẫu lớp 7 của học sinh giỏi văn

“Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo”

Mở đầu bài cáo tác giả đã đưa ra tư tưởng, nhân nghĩa, nhân đạo. “Nhân” có nghĩa là người, “nghĩa” chính đáng, “nhân nghĩa” là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lý. Nguyễn Trãi đã Việt hóa tư tưởng nhân nghĩa của mình, chắt lọc những gì cơ bản và quan trọng nhất, nhân nghĩa là lo cho dân, vì dân, cốt “yên dân”, “lo trừ bạo cho dân”, vì dân mà diệt trừ cái ác chống lại giặc ngoại xâm, bảo vệ dân tộc bằng chiến tranh chính nghĩa.

Tư tưởng của ông là sự kết hợp hài hòa và tinh túy giữa nhân dân và thực tiễn của dân tộc, ông đứng trên cơ sở, lập trường của nhân dân thông qua đó để vạch trần, tố cáo tội ác của quân thù và bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của chúng. Qua đó để chứng tỏ rằng Nguyễn Trãi là người vì dân, vì nước, cống hiến suốt đời vì dân tộc.

Tác giả đã nêu rõ chính nghĩa, nhân nghĩa thì phải làm gì: Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

“Nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã riêng

Phong tục Bắc Nam cũng khác”

Nước ta được biết đến là một trong những cái nôi của nên văn minh loài người có nhà nước, địa lý, lãnh thổ, ngôn ngữ và tiếng nói riêng, để tồn tại và phát triển chúng ta đã phải đổ biết bao nhiêu xương máu để giữ được nên đọc lập cho dân tộc. vì thế nó là niềm tự hào dân tộc “…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:

>> Xem thêm:  Phần 3 Đề 6: Tả một tiết học mà em thích nhất.

“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”

Bên cạnh đó ta còn hiểu rằng: Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc

….

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”

Nhắc tới nhân nghĩa tác giả còn nêu rõ: Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công, không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã:

“Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế

Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm

Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời”

Nhân nghĩa thì không làm trái với đạo lý làm người, không áp bức, bóc lột người khác, chính vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để ngàn năm”

Nhân dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn mà không bất cứ kẻ thù, thế lực nào có thể dập tắt được. Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã:

“Đánh một trận, sạch không kình ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông”

Quân ta chiến thắng vì đã:

“Đem đại nghĩa thắng hung tàn

Lấy chí nhân thay cường bạo”

>> Xem thêm:  Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Chúng ta tuyên bố với thế giới rằng Việt Nam là đất nước yêu chuộng hòa bình, sống và hợp tác cùng bè bạn thế giới. Nguyễn Trãi là một người rất hiểu lẽ đời và ông có con mắt nhìn xa trông rộng khi biết dược điều đấy, Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại, là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị bại vong:

“Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,

ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.

Vương Thông,Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa,

về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”

Không phải đây là cuộc chiến duy nhất mà chúng ta từng đối mặt nhưng đây chính cuộc kháng chiến chống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng.

Nội dung Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó trở thành một làn sóng, một sức mạnh mà không ai có thể nhấn chìm được, đưa đất nước ta vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi cuối cùng.

Bài viết liên quan