Tuần 4 – Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Sa hành đoản ca)
Tuần 4 – Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Sa hành đoản ca)
Hướng dẫn
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Cao Bá Quát (1809? – 1855), người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội). Ông là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh.
Là người có tài nhưng bị sự đố kị của chốn quan trường, Cao Bá Quát chỉ đỗ đến cử nhân (năm 1831). Là người có nhân cách cứng cỏi và phóng khoáng, nên sau một thời gian làm quan với triều Nguyễn, Cao Bá Quát bị đẩy ra khỏi kinh đô để nhận chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai, Sơn Tây (nay là Hà Nội).
Bất bình với triều đình về nhiều mặt, năm 1854, Cao Bá Quát tham gia lãnh đạo phong trào nông dân khởi nghĩa do Lê Duy Cự làm minh chủ nổi dậy ở Mĩ Lương. Cuộc khởi nghĩa thất bại, Cao Bá Quát hi sinh. Triều đình nhà Nguyễn còn thực hiện lệnh "tru di tam tộc" hết sức tàn bạo và khắc nghiệt đối với dòng họ Cao.
2.Di sản văn học của Cao Bá Quát còn khoảng 1353 bài thơ và 21 bài văn chữ Hán. Thơ văn ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến nhà Nguyễn trì trệ, bảo thủ, đồng thời chứa đựng tư tưởng khai sáng tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX, khi mà nguy cơ đất nước bị phương Tây xâm lược ngày càng rõ rệt.
3. Sau khi đỗ cử nhân, Cao Bá Quát nhiều lần vào kinh đô thi Hội nhưng không đỗ tiến sĩ. Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi Hội ấy (những chuyến đi qua những tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị). Trong bài thơ, nhà thơ đã mượn hình ảnh người đi trên bãi cát khó nhọc để hình dung con đường mưu cầu danh lợi đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi cũng như sự bế tắc của xã hội nhà Nguyễn lúc đó. Bài thơ là một trong những bằng chứng về tinh thần phê phán của ông đối với học thuật và sự bảo thủ, trì trệ của chế độ nhà Nguyễn nói chung, góp phần lí giải hành động khởi nghĩa của ông năm 1854.
II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. Như đã giới thiệu ở trên, rất nhiều khả năng bài thơ được làm trong những lần Cao Bá Quát vào Huế thi Hội. Hành trình từ Thăng Long vào Huế qua nhiều tỉnh miền Trung như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị là vùng có nhiều dải cát trắng mênh mông. Không phải đến Cao Bá Quát hình ảnh những bãi cát dài mới đi vào thơ văn. Trước ông, đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng viết:
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bởi thế, chắc chắn những hình ảnh bãi cát dài (Bãi cát dài, lại bãi cát dài), sóng biển và núi (Trèo non, lội suối, giận khôn vơi) là những hình ảnh có thực. Bởi ở miền Trung, nhất là hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị là dải đất hẹp, có thể bằng mắt thường nhìn thấy một phía là dãy Trường Sơn, một phía là biển Đông.
Tuy nhiên, những hình ảnh thơ này không chỉ dừng ở việc tả thực, mà nó còn mang một sức khái quát cao. Mượn hình ảnh con người như bị sa lầy trong những bãi cát dài, Cao Bá Quát muốn phê phán sự trì trệ, nặng nề trong kiểu giáo dục hiện thời. Bài thơ hé mở những cảm nhận bước đầu của Cao Bá Quát về sự cần thiết của việc đổi mới giáo dục qua cái nhìn chán ghét lối học cũ, học chỉ để mưu cầu danh lợi.
2. Sáu câu thơ:
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
có vẻ rời rạc không gắn bó với nhau nhưng thực chất là một liên kết lô gích, chặt chẽ. Danh lợi (chỉ việc học hành, thi cử để đạt tới một vị trí trong chốn quan trường) chính là khái niệm xâu chuỗi toàn bộ đoạn thơ. Hai câu thơ: "Không học được tiên ông phép ngủ, – Trèo non, lội suối, giận khôn vơi" thể hiện nỗi chán nản của nhà thơ vì tự mình phải hành hạ mình để theo đuổi công danh. Trong khi đó bốn câu thơ còn lại nói về sự cám dỗ của chuyện công danh đối với người đời. Nhận định mang tính khái quát về những kẻ ham danh lợi đều phải chạy ngược chạy xuôi nhọc nhằn vất vả được nhà thơ minh hoạ bằng hình ảnh người đời thấy ở đâu có quán rượu ngon đều đổ xô đến, mấy ai tỉnh táo thoát ra khỏi sự cám dỗ của rượu. Danh lợi cũng là một thứ rượu dễ làm say người. Sáu câu thơ như là bước chuẩn bị cho kết luận của tác giả: cần phải thoát khỏi cơn say danh lợi vô nghĩa.
3. Tâm trạng của tác giả khi đi trên bãi cát là tâm trạng chán nản, mệt mỏi rã rời. Tầm tư tưởng cao rộng của nhà thơ chính là ở chỗ đã nhận ra tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ. Từ chuyện đi trên cát mà liên tưởng đến chuyện lợi danh, đến chốn quan trường là một sự liên tưởng sáng tạo mà lô gích. Người đi trên cát sa lầy vào trong cát chẳng khác nào cái mồi công danh, bổng lộc giống như cái bả lôi kéo con người, làm cho con người mê muội. Nhìn thấy con đường danh lợi đầy nhọc nhằn, đầy chông gai, tuy chưa thể tìm ra một con đường đi nào khác, song Cao Bá Quát đã thấy không thể cứ đi trên bãi cát danh lợi đó mãi được.
4. Bài ca ngắn đi trên bãi cát là một bài thơ thuộc loại cổ thể có phần tự do về kết cấu, về vần và nhịp điệu. Nhịp điệu của bài thơ này được tạo nên chủ yếu nhờ sự thay đổi độ dài của các câu thơ cũng như sự khác nhau trong cách ngắt nhịp của mỗi câu thơ, đem lại khả năng diễn đạt phong phú. Có từng cặp đối xứng với số lượng chữ không đều nhau: 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ. Cách ngắt nhịp khá linh hoạt, khi thì là nhịp 2/3 (Trường sa/ phục trường sa), khi là 3/5 (Quân bất học/ tiên gia mĩ thuỵ ông), khi lại là 4/3 (Phong tiền tửu điếm/ hữu mĩ tửu). Câu cuối cùng (Quân hồ vi hồ sa thượng lập?) không có cặp đối, như một câu hỏi buông ra đầy ám ảnh. Nhịp điệu diễn đạt sự gập ghềnh, trúc trắc của những bước đi trên bãi cát dài, tượng trưng cho con đường công danh đáng ghét vậy.
III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Bài ca ngắn đi trên bãi cát chỉ là một minh chứng nổi bật, trong toàn bộ sự nghiệp thơ văn của mình, Cao Bá Quát còn nhiều lần khác nhắc đến chuyện thi cử, công danh như là một nỗi ám ảnh đầy bế tắc. Ví dụ trong bài Đắc gia thư, thị nhật tác, ông viết: "Dư sinh phù danh ngộ – Thập niên trệ văn mặc" (Đời ta lầm lỡ vì cái danh hờ – Hàng chục năm chìm đắm trong bút mực). Hoặc trong bài Đình thí hận trình chư hữu, ông lại viết: "Vị luyến minh thì học tố quan, – Nhất danh tạo đào vị năng nhàn" (Vì lưu luyến với thời sáng sủa nên học làm quan – Một chút danh mà lận đận mãi chưa thể nhàn được). Còn rất nhiều bài thơ khác, ông cũng tỏ ra chán ghét việc học hành và thi cử văn chương để tìm kiếm danh lợi. Có lẽ đây chính là nguyên nhân khiến Cao Bá Quát nhận ra rằng cần phải làm một việc gì đó lớn lao hơn, có ý nghĩa hơn, có ích cho đời hơn. Đó là lí do dẫn ông đến với cuộc khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn.
Mai Thu