Cảm nhận cái ngông của Nguyễn Công Trứtrong Bài ca ngất ngưởng


Cảm nhận cái ngông của Nguyễn Công Trứtrong Bài ca ngất ngưởng

Hướng dẫn

  • Mở bài:

Nguyễn Công Trứ là nhà thơ nổi bậc trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ 19. Ông là người có tài, lại là một người của hành động. Trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông đưa những suy ngẫm của mnihf vào thơ ca hết sức điêu luyện, thể hiện cái khí phách ngang tàng, tài hoa của một tài thơ xuất chúng. Bài ca ngất ngưỡng là một thi phẩm nổi bạc của ông viết khi đã về hưu, vui thú an nhàn. Bài thơ thể hiện sâu sắc cái ngông của Nguyễn Công Trứ trước cuộc đời:

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.

Kìa núi nợ phau phau mây trắng.

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Được mất dương dương người thái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong,

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.

Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”

  • Thân bài:

Ngay tựa đề bài thơ đã nói lên sự ngất ngưởng của tinh thần bậc dũng tướng. Phong thái ấy tiếp tục được triển khai ở khắp bài thơ.

Nguyễn Công Trứ vốn là người kiêu ngạo và tài hoa. Thật hiếm thấy trong nền thơ và lịch sử một người đa tài và mạnh mẽ như thế. Không nhũng ông giỏi trong việc điều binh trị nước mà thi ca cũng vào hạng xuất chúng, kinh tế cũng thu về nhiều thành tựu. Ông lại là người tận trung tận hiếu với đất nước. Cũng là người hết sức mê chơi. Bởi thế mà trong ông luôn tồn tại nhiều mâu thuẫn khó giải bày. Cuộc đời cũng thăng trầm không ít.

Cho nên mở bài, ông nói lên cái tình cảnh của ông:

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”.

Trong trời đất này không có chuyện gì không phải là của ta. Nghĩa là trời đất này ở trong tầm tay của ông. Việc của trời đất cũng là việc của ông. Câu thơ thể hiện cái chí kinh bang tế thế của người làm trai của thời đại. Từ đó làm hiện lên hình bóng lẫm liệt, phi thường của bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, mắt dõi trong bốn phương tám hướng, thâu tóm cả trời đất.

Tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn nhận lấy cái giới hạn của cuộc đời. Ý tứ vừa kín vừa hở như tự giễu cợt mình. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với sở tính của ông. Làm quan là để phục vụ cho dân, cho nước, đem cái tài mà tranh hùng với thiên hạ, thỏa chí tang bồng. Thế nhưng, quan trường nhiễu nhương, đúng sai khó phân. Lại thêm nguyên tắc, điều luật chặt chẽ. Đâu thể tự ý mà làm. Đâu thể thấy điều lợi cho muôn dân mà tự ý thực hành điều lợi ấy được.

>> Xem thêm:  Văn nghị luận: Cảnh thu, tình thu trong thơ Nguyễn Khuyến

Cho nên, sự vào lồng của ông Hi Văn có nghĩa là chấp hành cái ràng buộc của quan trường là một điều miễn cưỡng. Thế nên, cuộc đời từ đó thăng trầm, không sao kể siết:

“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng.

Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa, đứng đầu cuộc ứng thí đâu phải chuyện thường đâu. Rồi làm quan đến chức Tham tán quân sự. Lại đến khi làm Tổng đốc Hải An, một mình đứng đầu một tổng đâu phải chuyện thường. Rồi khi quân tình loạn lạc, ông lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta). Sau lại về làm Phủ Doãn Thừa Thiên.

Những danh hiệu và chức vị cao quý tột bậc ấy là điều mơ ước của biết bao người. Chỉ cần một trong những vinh vang ấy thôi cũng đủ tự hào lắm rồi. Thế mà, Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ. Tất cả vì dân vì nước. Được tin cẩn thì nhận lấy nghĩa vụ. Công việc đến tay mình thì làm. Cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức.

Đối với ông, công danh phú quý nào có xá gì. Người tài năng như ông đạt được danh vọng cũng không hề khó. Ông không xem đó là cái cần đạt, không là mục đích đến của khát vọng và hành động. Đối với ông, làm trai là phải vì đất nước mà tận trung tận hiếu. Trọn cuộc đời ông nào giữ lại gì cho riêng ông. Ông chỉ giữ lại cho mình cái tình yêu cuộc đời thắm thiết và tình yêu cái đẹp bình dị mà đắm say

Bằng mấy lời tổng kết cuộc đời, Nguyễn Công Trứ thể hiện sâu sắc cái tài năng phi thường, cái chí khí ngang tàng, cái “ngông” tài hoa của mình. Suốt cuộc đời ông vừa làm việc vừa chơi. Chơi mà không quên nghĩa vụ. Làm mà cũng không quên chơi. Bởi thế, hễ có thời gian là ông đi chơi. Mà ông chơi cũng bạo lắm. Ông thích chơi “ngông” với đời:

>> Xem thêm:  Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao đều viết về người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Anh (chị) hãy phân tích truyện Chí Phèo trong sự đối sánh với Tắt đèn để thấy được sự độc đáo, mới mẻ về hiện thực của ngòi bút ông

“Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.

Kìa núi nợ phau phau mây trắng.

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

Lúc còn ở quan trường, vì giữ lễ mà có chút kín kẽ. Khi đã “giải tổ chi niên” rồi, ông không ngại ngần gì nữa. Ông làm những trò cười mà người khác không dám làm. Người giàu sang thì cưỡi ngựa, áo quần sang trọng. Còn cụ, dù là vị quan về hưu, nhưng lại thích cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa. Người đời bảo cụ khác người. Có kẻ cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế. Cụ cho bò đeo nhạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Phải đâu cụ muốn khoe mình hy gây sự chú ý bằng cái kì quặc. Cụ muốn thể hiện cái ý của mình và nhắc nhở nhân thế đấy thôi

Xưa Lão Tử cưỡi trâu xanh đi về núi. Nay Nguyễn Công Trứ cưỡi bò vàng là muốn làm theo người xưa đó thôi. Ông cười cho cái sự đời nhiễu nhương, miệng đời gian trá. Lòng người vốn có nhiều u uẩn, chỉ nhìn thấy cái hình mà không nhìn thấy cái ý. Sự ngạc nhiên của người đời khiến cho ông thích thú. Cưỡi ngựa hay cưỡi bò đâu có gì khác biệt. Có khác chăng là bởi từ cái nhìn của con người mà thôi. Đôi mắt trần tục làm sao thấy được tấm lòng của thánh nhân

Chỉ rõ bản chất ấy, ông cảm khái câu thơ ngất ngưỡng:

“Kìa núi nợ phau phau mây trắng.

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”.

Nguyễn Công Trứ đã cố tạo ra cái mâu thuẫn giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong. Bên ngoài tục mà tiên. Bên trong tiên mà lại tục. Rồi sau đó, ông lại phủ nhận luôn cái ẩn ý của mình

Cưỡi bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau. Cụ cười mình là: “tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”. Kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì chính là các cô ả đầu. Hình thức đã không đúng mực, lại còn bất kính. Lên chùa lễ phật tát phải trang nghiêm, kính cẩn. Ở đây, ông dẫn cả cô đầu, vừa nhếch nhác lại vừa ồn ào chẳng ra gì. Thế nhưng, Bụt không giận, không quỏ trách mà còn cười độ lượng theo ông.

>> Xem thêm:  Phân tích bài thơ Vội Vàng của nhà thơ Xuân Diệu

Dĩ nhiên, khi đến chùa, cụ đâu có lễ Phật. Cụ cho bàyà bày tiệc ca hát. Một tiệc hát ả đào có cả đàn kịch, trống phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc vì biết tính và nể uy cụ mà làm lơ đi. Đâu phải Nguyễn Công Trứ bất kính với Phật. Cụ muốn mang đến đây cái triết lí nhân sinh thâm thúy của muôn đời. Phật ở tại tâm. Tâm có phật thì phật chứng nhận. Tâm không có phật thì dù thành kính đến mấy cũng vô ích mà thôi:

“Được mất dương dương người thái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.

Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.

Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tấng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân. Đối với cụ, làm người thì phải tận hiến cho đời. Đã tận dâng, tận hiến rồi thì lời khen chê, cái được mất phỏng có ý nghĩa gì nữa đâu. Cái cốt là tìm thấy niềm vui trong sạch ở cõi đời này. Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê… Tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng.

Câu thơ ngắt nhịp như tiếng phách tiếng đàn. Tiếng dài thanh thoát, cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần. Âm điệu thênh thang, bay bổng tung lên không trung như gió thổi trời cao. Tiếng ngắn rộn ràng, dìu dặt như nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng. Rồi tất cả dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh trong tiếng tùng mãn cuộc. Chấm dứt câu thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.

Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,

Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.

Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn. Mặc dù câu đó chỉ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình

“Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”

Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần. Mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tùy ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc. Niêm luật tự do, đối không bắt buộc. Âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ vừa bi thương vừa hùng tráng lại như cười cợt, trêu đùa với đời

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Bài viết liên quan