Cảm nhận truyện ngắn Bến quê hay


Truyện ngắn Bến quê của nhà văn Nguyễn Minh Châu là truyện ngắn chứa đựng rất nhiều những triết lí sâu sắc về cuộc đời, Thông qua nhân vật Nhĩ, người đọc đều cảm nhận được một phần cuộc đời mình ở trong đó vì nó quá gần gũi, quá chân thực đối với cuộc đời thực. Bằng những hiểu biết của mình sau khi học xong truyện ngắn này, anh chị hãy trình bày những cảm nhận về truyện Bến quê.

Dưới đây là phần dàn ý chi tiết cùng bài văn hoàn chỉnh cho đề bài cảm nhận truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu. Các bạn hãy cùng tham khảo để có thêm những nội dung thú vị nhất nhé!

I. Dàn ý cho đề bài cảm nhận về truyện ngắn Bến quê

1. Mở bài cho đề cảm nhận về truyện ngắn Bến quê

– Truyện ngắn “Bến quê” của nhà văn Nguyễn Minh Châu là truyện ngắn khiến tôi có xúc cảm thực sự, mang nhiều ấn tượng về những bài học nhân sinh thấm thía.

–  “Bến quê” cũng là một trong số những tác phẩm như vậy. Truyện ngắn in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985.

– Tác giả đặt nhân vật của mình vào một căn bệnh hiểm nghèo – đó là bị liệt toàn thân, không thể di chuyển được dù chỉ là nhích người trên giường bệnh.

– Cái chân lí mà Nhĩ ngộ ra được, trong khoảnh khắc đầy bi kịch này, chính là “bờ bên kia”.

2. Thân bài cho đề cảm nhận về truyện ngắn Bến quê

– Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

– Nhĩ, cả một đời đặt chân đến biết bao vùng đất, vẫy vùng tìm kiếm vẻ đẹp khắp muôn nơi, vậy mà đến khi, vì bất hạnh mang bệnh hiểm nghèo, mới chợt nghe được hơi thở cuộc đời mà anh đã chút nữa đánh rơi.

– “Bên kia sông” mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc:

+ nó là một ước mơ: con người ta hãy đi đến cái “bên kia sông” của cuộc đời mà mình chưa tới.

+ “bờ bên kia sông” là hình ảnh có thực ở đời. Hình ảnh có thực về cuộc đời (chứ không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh), cuộc đời có thực ấy thật nguyên vẹn, “cả trong những nét tiêu sơ”.

– Một người đi gần hết đời mình, trải đủ, nếm đủ, nhận ra chân lí rồi, mà không thể nào chạm tới. Hạnh phúc giản đơn là thế, bình dị là thế, nhưng không phải ai cũng biết cách chạm tay vào mà vẫn giữ được để cho thứ hạnh phúc mong manh ấy không vụn vỡ…

– Bến quê, bến đời, nơi người ta không tới được đậm màu sắc triết lí là ý nghĩ về con đường nhận thức tưởng như đã đến mà thực tế còn rất xa xôi.

– Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó, đối với Nhĩ là một sự hồi hộp vô biên.

3. Kết bài cho đề cảm nhận về truyện ngắn Bến quê

. Con thuyền từ bờ bên kia, sang quá nửa sông, rồi chạm mũi vào đất phía bên này… Tất cả, đem đến bài học nhân sinh cho người đời… Vẫn mấy câu hát ấy, như cứa vào lòng ai đang đọc, đang ngẫm, đang nghe… “Về đi em làng quê cũ, có con sông xưa vỗ bờ. Về ôm vai Mẹ yêu dấu, để được khóc như đứa trẻ thơ…”

>> Xem thêm:  MS540 - Khi một nhà văn mới bước vào làm văn., điều đầu tiên tôi sẽ hỏi anh ta là: Anh sẽ mang lại điều gì mới cho người đọc.

II. Bài tham khảo cho đề bài cảm nhận về truyện ngắn Bến quê

“Về đi em làng quê cũ, có con sông xưa vỗ bờ. Về ôm vai Mẹ yêu dấu, để được khóc như đứa trẻ thơ”. Văng vẳng trong tôi ca từ đầy ám ảnh trong nhạc phẩm của Trần Tiến… Chẳng biết tự bao giờ, dòng sông quê, bến sông quê đã trở thành bến bờ xưa cũ, như một ước lệ, để người đi xa níu về. Không biết có phải vì, tôi quá yêu bến sông quê mình, nơi đón bố đi xa trở về, nơi mẹ ôm mỗi lần chia cách, mà khiến lòng tôi cứ day dứt mãi không thôi với truyện ngắn “Bến quê” của nhà văn Nguyễn Minh Châu? Đây là truyện ngắn, khiến tôi có xúc cảm thực sự, mang nhiều ấn tượng về những bài học nhân sinh thấm thía.

Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông đã để lại cho văn học nước nhà một sự nghiệp thơ văn khá đồ sộ như: Bức tranh, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng…Đây là thời kỳ nhà văn đang “đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người” thời kỳ mà con người Việt Nam dường như chỉ sống trong lý tưởng và sống bằng lý tưởng.Nhưng khi đất nước hòa bình, anh đã rất nhạy cảm và nhìn ra được những thay đổi của con người, những cuộc đời trĩu nặng đau thương nhưng nồng nàn khắc khoải với cuộc sống. “Bến quê” cũng là một trong số những tác phẩm như vậy. Truyện ngắn in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985.

Tác phẩm được tạo nên bởi cốt truyện thật đơn giản nhưng cũng rất đặc biệt. Tác giả đặt nhân vật của mình vào một căn bệnh hiểm nghèo – đó là bị liệt toàn thân, không thể di chuyển được dù chỉ là nhích người trên giường bệnh. Và anh làm một công việc để có điều kiện đi khắp nơi trên trái đất không xót một xó xỉnh nào. Một cách xây dựng rất tinh tế, ngay mở đầu câu chuyện đã thu hút bạn đọc phải tò mò đọc tiếp những tình huống, chi tiết của truyện.

Có lẽ bi kịch lớn nhất của đời người, là tìm mải miết hạnh phúc và nét đẹp xa xôi; cho đến cuối cùng, khi sắp hết đời, mới nhận ra có cái đẹp bình dị đến lạnh người, mà lại nằm ngay bên mình, ở dưới chân mình, trong tầm ngắm gần, mình vẫn tiếp xúc mỗi phút giây… Nhĩ, cả một đời đặt chân đến biết bao vùng đất, vẫy vùng tìm kiếm vẻ đẹp khắp muôn nơi, vậy mà đến khi, vì bất hạnh mang bệnh hiểm nghèo, mới chợt nghe được hơi thở cuộc đời mà anh đã chút nữa đánh rơi. Nhìn vợ bước xuống cầu thang, anh đã xót xa “suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm”. Nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu, chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì hơn. Cái nghèo không che giấu được của cả gia đình là chiếc áo vá Liên mặc, điều ấy không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên, buồn bã. Đứa con trai, niềm hi vọng của vợ chồng anh đi học xa, tận một thành phố phía Nam được gọi trở về phải chăng cũng là dấu hiệu không vui? Cái nghèo khó, cái ốm đau từ “tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào” làm cho cái không gian chật chội kia càng thêm ngột ngạt. Sự thắt ngặt của hoàn cảnh khách quan được thể hiện bằng những dồn nén chủ quan, ngòi bút miêu tả tâm lí của người viết thật là tinh tế. Nó lắng đọng ở chiều sâu. Riêng sức khoẻ của mình, Nhĩ tự biết. Tuy ngày nào cũng uống thuốc, bệnh tình không thuyên giảm, hôm nay “cũng thấy như hôm qua”. Nhấc mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy như mình “vừa bay được một nửa vòng trái đất”. Lạc quan, hi vọng như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước đùa vui để đêm đêm con người thực của anh thao thức lắng nghe, cái âm thanh mà vợ anh giả vờ không nghe: ấy là cái bờ đất lở phía bên này “cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ”. Có lúc Nhĩ thảng thốt giật mình như bấm đốt ngón tay “Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?”. Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng suốt về tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan, hoặc khao khát, chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc về chân lí.

>> Xem thêm:  Cảm nghĩ về tình anh em của Thành và Thúy trong bài Cuộc chia tay của những con búp bê

Và cái chân lí mà Nhĩ ngộ ra được, trong khoảnh khắc đầy bi kịch này, chính là “bờ bên kia”. Tính biểu tượng từ “cái bên kia sông” mở ra hai tầng ý nghĩa, trước hết, nó là một ước mơ: con người ta hãy đi đến cái “bên kia sông” của cuộc đời mà mình chưa tới. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn đến với cái thế giới ước mơ kia đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Thế giới của ước mơ chẳng qua chỉ là một vùng nhận thức (tâm thức) trong tượng tưởng của con người. Nó tuyệt đích và hoàn mĩ, nhưng nó chẳng là những gì cụ thể cả. Tuy vậy, nó lại là cái đích mà con người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chắc gì đã đến được. Vả lại không đạt đến độ chín đó của sự thăng trầm, hoặc quá ngây thơ, người ta không sao hiểu nổi. Chẳng hạn như Tuấn, con trai anh, do không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng không hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ? Nó sẵn sàng “sà vào đám người chơi phá cờ thế trên hè” là lẽ dĩ nhiên.

Ý nghĩa thứ hai, “bờ bên kia sông” là hình ảnh có thực ở đời. Hình ảnh có thực về cuộc đời (chứ không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh), cuộc đời có thực ấy thật nguyên vẹn, “cả trong những nét tiêu sơ”. Một khi đã là cái thực, nó đối lập với sự cầu kì. Nó cần đến sự giản dị, hồn nhiên. Nhưng để hiểu được cuộc đời, người ta phải có một “con mắt xanh” nhìn nó, phải “in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia”. Cho đến cuối cùng, cái có thực, cái gần thật gần, mà tưởng chừng chỉ cần một chuyến đò ngang đơn giản thôi đã đưa chân ta đến miền đất hứa được rồi; vậy mà kể cả Nhĩ, hay con anh, cũng không thể nào chạm tới. Một người còn quá non trẻ, bỏ lỡ nhịp đời – giống anh, khi chưa từng bệnh. Một người đi gần hết đời mình, trải đủ, nếm đủ, nhận ra chân lí rồi, mà không thể nào chạm tới. Hạnh phúc giản đơn là thế, bình dị là thế, nhưng không phải ai cũng biết cách chạm tay vào mà vẫn giữ được để cho thứ hạnh phúc mong manh ấy không vụn vỡ…

>> Xem thêm:  Dàn ý nghị luận: Học để biết, học để làm, học để chung sống

Nói về “Bến quê”, có nhiều điều để viết, nhiều thứ để người ta có thể chiêm nghiệm, bởi vậy, nó dễ gây “thương nhớ” trong lòng người đọc. Bến quê, bến đời, nơi người ta không tới được đậm màu sắc triết lí là ý nghĩ về con đường nhận thức tưởng như đã đến mà thực tế còn rất xa xôi. Cái nghịch lí này không triết luận dài dòng, nó nằm ngay trong tâm trạng, một tâm trạng giày vò mà “lời lẽ không bao giờ giải thích hết” giữa “say mê” và “ân hận, đau đớn”. Tuy nhiên, đến được với cái đích ấy, con người hạnh phúc lại theo một cách riêng không phải như “một chú bé mới đẻ đang toét miệng cười” thích thú vì được chăm sóc mà là một nhà thám hiểm “đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa” trên một miền xa lạ. Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó, đối với Nhĩ là một sự hồi hộp vô biên. Hai con mắt của con người say mê và đau khổ ấy sáng lên, “long lanh” một cách khác thường. Những ngón tay bám vào cửa sổ như bám vào hạnh phúc cũng run lên. Còn cánh tay gầy guộc giơ ra phía ngoài khuôn cửa như “đang khẩn thiết ra hiệu cho người nào đó”. “Người nào đó” là ai? Tuấn ư? Không. Có lẽ không chỉ là Tuấn, là tất cả, là mọi người, những người đã và đang đọc tác phẩm này.

Nhĩ từ tư thế nằm, nhích dần ra khỏi tấm nệm đến lúc ngồi được lên nhờ có sự giúp đỡ vô tư của bọn trẻ. Con thuyền từ bờ bên kia, sang quá nửa sông, rồi chạm mũi vào đất phía bên này… Tất cả, đem đến bài học nhân sinh cho người đời… Vẫn mấy câu hát ấy, như cứa vào lòng ai đang đọc, đang ngẫm, đang nghe… “Về đi em làng quê cũ, có con sông xưa vỗ bờ. Về ôm vai Mẹ yêu dấu, để được khóc như đứa trẻ thơ…”

Bài viết liên quan