Phân tích bi kịch của người phụ nữ xưa trong xã hội cũ qua tác phẩm “Người con gái Nam Xương”


Đề bài: phân tích bi kịch của người phụ nữ xưa trong xã hội cũ qua tác phẩm “Người con gái Nam Xương”

Từ thế kỉ thứ XVI nền văn học trung đại của Việt Nam bắt đầu xuất hiện thể loại văn xuôi, truyện ngắn, tùy bút. Một trong những tác phẩm đó là tập truyện ngắn “truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, áng văn chương này đã được nhiều người đánh giá là “thiên cổ kì bút”, cây bút kỳ diệu chuyển tới ngàn đời.

Truyện ngắn “người con gái Nam Xương” nằm vị trí thứ 16 trong 20 tập của tập “truyền kì mạn lục. Nhà nho Nguyễn Dữ khơi nguồn từ truyện cổ tích vốn có cốt truyện sơ sài mang tên là “vợ chàng Trương” rồi bổ sung chi tiết, xây dựng nhân vật, gọt dũa lời văn, sáng tạo nên một áng văn chương bác học, lạ kỳ.

Từ một việc đùa vui, đêm đêm người mẹ chỉ vào cái bóng của mình nói với con nhỏ của mình rằng đó là cha của nó. Câu chuyện kể về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ, có nhan sắc, đức hạnh dưới chế độ vũ quyền phong kiến bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bế tắc phải tử vẫn. Tuy xa lìa khỏi trần gian đau khổ nhưng xuống dưới thủy cung người phụ nữ ấy đã được sống an lành giữa các thần tiên.

Tác phẩm xót đẫm nỗi thương tiếc người oan khổ, đồng thời, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta: là người tốt phải được đền đáp, đáp trả xứng đáng dù là ở một thế giới huyền bí. Nếu người trần không hiểu được chiếc bóng âm thầm, lặng lẽ mà oan nghiệt kia thì thật là chỉ có tiên mới có thể hiểu chiếc bóng đó và giải oan cho con người đầy đau khổ.

Nàng Vũ Nương là một người vợ đoan chính, một nàng dâu thảo hiền, một người mẹ hết mực thương yêu con vậy mà bị hàm oan rơi vào bế tắc, bể khổ, để nêu nổi bật phẩm chất và đức hạnh của Vũ Nương tác giả đã đặt nhân vật vào các tình huống.

>> Xem thêm:  Dàn ý phân tích nghệ thuật lập luận trong Tuyên ngôn độc lập

Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng biết chồng mình có tính đã nghi nên đã giữ gìn khuôn phép.

Cảnh 2: Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm. Nàng “chẳng dám mong” vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng “khi về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Vũ Nương cũng thông cảm cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng. Và xúc động nhất là những lời tâm tình về nỗi nhớ nhung, trông chờ khắc khoải của mình khi xa chồng. Những lời văn từng nhịp, từng nhịp biền ngẫu như nhịp đập trái tim nàng – trái tim của người vợ trẻ khát khao yêu thương đang thổn thức lo âu cho chồng. Những lời đso thấm vào lòng người, khiến ai ai cũng xúc động ứa hai hàng lệ.

Cảnh 3: Rồi đến khi xa chồng, nàng càng chứng tỏ và bộc lộ nhiều phẩm chất đáng quý. Trước hết, nàng là người vợ hết mực chung thuỷ với chồng. Nỗi buồn nhớ chồng vò võ, kéo dài qua năm tháng. Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn” – cảnh vui mùa xuân hay “mây che kín núi” – cảnh buồn mùa đông, nàng lại chặn “nỗi buồn góc bể chân trời nhớ người đi xa. Đồng thời, nàng là người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy, chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ sự thiếu vắng tình cha. Bằng chứng chính là chiếc bóng ở phần sau câu chuyện mà nàng vẫn bảo đó là cha Đản. Cuối cùng, Vũ Nương còn bộc lộ đức tính hiếu thảo của người con dâu, tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nàng lo chạy chữa thuốc thang cho mẹ qua khỏi, thành tâm lễ bái thần phật, bởi yếu tố tâm linh đối với người xưa là rất quan trọng. Nàng lúc nào cũng dịu dàng, “lấy lời ngọt ngào khôn khéo, khuyên lơn”. Lời trăng trối cuối cùng của bà mẹ chồng đã đánh giá cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình: “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Thông thường, nhất là trong xã hội cũ, mối quan hệ mẹ chồng – con dâu là mối quan hệ căng thẳng, phức tạp. Nhưng trước người con dâu hết mực hiền thảo như Vũ Nương thì bà mẹ Trương Sinh không thể không yêu mến. Khi bà mất, Vũ Nương đã “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Có thể nói, cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ: một người vợ thuỷ chung, một người mẹ thương con, một người dâu hiếu thảo. Ở bất kỳ một cương vị nào, nàng cũng làm rất hoàn hảo.

>> Xem thêm:  Phân tích nghệ thuật trào phúng và bức chân dung biếm họa trong đoạn trích Hạnh phúc một tang gia trong Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng

Cảnh 4: Khi bị chồng nghi oan, nàng đã tìm mọi cách để xoá bỏ ngờ vực trong lòng Trương Sinh.

Ở lời nói đầu tiên, nàng nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng chung thuỷ trong trắng của mình. Cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩa là nàng đã cố gắng hàn gắn, cứu vãn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.

Ở lời nói thứ hai trong tâm trạng “bất đắc dĩ”, Vũ Nương bày tỏ nỗi thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử tàn nhẫn, bất công, không có quyền tự bảo vệ mình, thậm chí không có quyền được bảo vệ bởi những lời biện bạch, thanh minh của hàng xóm láng giềng. Người phụ nữ của gia đình đã mất đi hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia nghi thất”. Tình cảm đơn chiếc thuỷ chung nàng dành cho chồng đã bị phủ nhận không thương tiếc. Giờ đây “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa”, cả nỗi nhớ chờ chồng mà hoá đá trước đây cũng không còn. Vậy thì cuộc đời còn gì ý nghĩa nữa đối với người vợ trẻ khao khát yêu thương ấy?

Chẳng còn gì cả, chỉ có nỗi thất vọng tột cùng, đau đớn ê chề bởi cuộc hôn nhân đã không còn cách nào hàn gắn nổi, mà nàng thì phải chịu oan khuất tày trời. Bị dồn đến bước đường cùng, sau mọi cố gắng không thành, Vũ Nương chỉ còn biết mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Nàng đã tắm gội chay sạch mong dòng nước mát làm dịu đi tức giận trong lòng, khiến nàng suy nghĩ tỉnh táo hơn để không hành động bồng bột. Nhưng nàng vẫn không thay đổi quyết định ban đầu, bởi chẳng còn con đường nào khác cho người phụ nữ bất hạnh này. Lời than của nàng trước trời cao sông thẳm là lời nguyện xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất cũng như đức hạnh của nàng. Hành động trẫm mình là hành động quyết liệt cuối cùng, chất chứa nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng đi theo sự chỉ đạo của lý trí.

>> Xem thêm:  Nghị luận xã hội về “Tự tin và tự phụ” -văn lớp 9

Được các tiên nữ cứu, nàng sống dưới thuỷ cung và được đối xử tình nghĩa. Nàng hết sức cảm kích ơn cứu mạng của Linh Phi và các tiên nữ cung nước. Nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi nhớ cuộc sống trần thế – cuộc sống nghiệt ngã đã đẩy nàng đến cái chết. Vũ Nương vẫn là người vợ yêu chồng, người mẹ thương con, vẫn nặng lòng nhung nhớ quê hương, mộ phần cha mẹ, đồng thời vẫn khao khát được trả lại danh dự. Bởi vậy mà nàng đã hiện về khi Trương Sinh lập đàn giải oan. Thế nhưng “cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, Vũ Nương không quay trở về trần gian nữa.

Qua kiếp đời của một người con gái chân chính, một người vợ đoan trang, người mẹ hết mực thương yêu con cái, một người con dâu hiếu thảo nhưng vẫn bị người chồng vũ quyền, gia trưởng nghi ngờ, đành phải lấy cái chết của mình để minh oan. Thân đàn bà như “bèo dạt mây trôi” không có quyền hành, tiếng nói gì trong gia đình hay xã hội.

Qua chương này nhà văn thể hiện giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc, lên án xã hội “trọng nam khinh nữ”, đàn ông năm thê bảy thiếp, đàn bà thì phải giữ được phẩm hạnh và trinh tiết của mình, nếu không làm được sẽ bị xã hội chôn vùi cuộc đời của một con người.

Bài viết liên quan