Phân tích cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác lớp 9


Phân tích cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác lớp 9

Hướng dẫn

BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN BÀI THƠ “VIẾNG LĂNG BÁC” HAY ĐẦY ĐỦ

Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được nhà thơ sáng tác năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra thắng lợi, đất nước thống nhất và lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành. Bài thơ thể hiện lòng kính yêu và cả sự xót đau vô hạn của Viễn Phương và cả của nhân dân miền Nam đối với Bác kính yêu.

Khổ một là cảm xúc của nhà thơ khi nhìn thấy hình ảnh hàng tre:

  • “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Câu thơ là một lời thông báo nhưng lại gợi ra nỗi xúc động của người con phương xa. Cách xưng hô “con-Bác” vừa thiêng liêng, thành kính vừa gần gũi, thân mật. Nỗi đau chia cắt nén lại trong chữ “thăm”, con từ miền Nam ra thăm nơi cha ở, thăm chỗ cha nằm. Lời thơ là tiếng nói trái tim chân thành, tha thiết như nén hương thơm, được Viễn Phương thành kính dâng lên người cha kính yêu.

Từ miền Nam, sau bao năm mong mỏi, bây giờ mới được ra viếng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và ấn tượng đậm nét là hàng tre bát ngát, xanh xanh đứng thẳng hàng trong sương sớm:

  • “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
  • Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
  • Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”

Cây tre là biểu tượng của dân tộc với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường. Thán từ “Ôi” không chỉ thể hiện niềm xúc động, nghẹn ngào mà còn thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác giả khi được gặp lại ở lăng Bác một hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, của đất nước Việt Nam. Quanh lăng Bác, hàng tre vẫn đứng thẳng hàng canh giấc ngủ cho Người, cả dân tộc vẫn đoàn kết và quần tụ quanh người cha già kính yêu ngay cả khi Người đã nằm xuống.

Sang đến khổ thơ thứ 2, Viễn Phương đã bày tỏ cảm xúc về Bác, về những dòng người vào viếng Bác. Hai câu thơ đầu rực sáng với hai hình ảnh “Mặt trời”:

  • “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
  • Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Vầng “mặt trời trong lăng rất đỏ” chính là Bác. Bác là vầng mặt trời của cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Người mang đến độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp ấy đã thể hiện công lao vĩ đại, không gì có thể sánh được của Bác với đất nước, con người Việt Nam. Sự xúc động và lòng biết ơn vô hạn đã giúp nhà thơ có sự sáng tạo độc đáo khi nhận ra dù đã nằm trong lăng, Bác vẫn là vầng mặt trời rất đỏ, một màu đỏ nồng nàn, rực rỡ tỏa ra từ trái tim, từ nhiệt huyết của Bác khiến mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ phải khâm phục, ngưỡng mộ.

Song hành với hình ảnh mặt đi qua trên lăng là hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ. Dòng người vào trong lăng được đặt trong một không gian đặc biệt, không gian thương nhớ. Cấu trúc “Ngày ngày đi…” lặp lại nhấn mạnh sự song hành của mặt trời và dòng người như khẳng định một quy luật: mặt trời đi qua trên lăng còn dòng người đi trong thương nhớ. Nỗi nhớ thương người cha già kính yêu của cả dân tộc Việt Nam là vô tận. Dòng người được miêu tả bằng hình ảnh ẩn dụ rất đẹp, độc đáo “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Từ một hình ảnh thực, dòng người với vòng hoa đủ loại màu sắc, quần áo trông xa như một tràng hoa, tác giả đã đưa ra một hình ảnh tượng trưng đặc sắc. Mỗi con người là một bông hoa, cả dòng người kết thành một tràng hoa dâng lên Bác những gì đẹp nhất của mình. Hình ảnh ẩn dụ “Bảy mươi chín mùa xuân”, Viễn Phương khẳng định cuộc đời Bác như một mùa xuân vĩnh hằng.

Khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng:

  • “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
  • Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Hai câu thơ cân đối, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng và yên tĩnh trong lăng. Không gian và thời gian ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Bác đang ngủ trong một giấc ngủ bình yên và thanh thản. Gam màu của mạch thơ như chói lọi và rực rỡ của khổ thơ trên đã chuyển thành một gam màu trong sáng, tuyệt đẹp, dịu nhẹ: vầng trăng sáng dịu hiền nâng niu giấc ngủ bình yên ấy. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ gợi về tâm hồn thi sĩ cao đẹp và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của nhà thơ Hồ Chí Minh.

>> Xem thêm:  Cảm nhận về 6 câu thơ đầu bài thơ Khi con tu hú của nhà thơ Tố Hữu

Niềm xúc động thành kính và nỗi đau xót khôn nguôi của tác giả được thể hiện sâu sắc ở hai câu thơ:

  • “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
  • Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Dù vẫn tin trời xanh là bất diệt nhưng vẫn đau đớn về sự ra đi của Bác. Lí trí vẫn khẳng định: “Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu) mà vẫn nghe thấy đau nhói ở trong tim. Câu thơ cuối cùng trực tiếp thể hiện nỗi đau xót khôn nguôi của người trước một mất mát không gì có thể bù đắp được.

Khổ thơ cuối cùng là nguyện ước của tác giả, nguyện ước được ở mãi mãi bên Bác. “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”, câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc của người Nam Bộ. “Mai về” có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy thương, thấy nhớ, thấy lưu luyến chẳng muốn xa rời. Càng không muốn chia xa thì nguyện ước được ở bên Bác càng mãnh liệt:

  • “Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
  • Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
  • Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Tác giả gửi gắm lòng mình nhập vào cảnh vật ở lăng Bác. Ước mong giản dị, nhỏ bé nhưng đó là nguyện ước được sống, được cống hiến mình cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ “muốn làm” cùng với nhịp điệu dồn dập ở câu thơ cuối đã khẳng định nỗi niềm tha thiết và nguyện ước chân thành, mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Hình ảnh cây tre ở cuối bài tạo nên kết cấu đầu cuối tương xứng. Ước muốn được làm cây tre trung hiếu bên lăng Bác là ước muốn cao đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong những ước nguyện được hóa thân của nhà thơ. Cây tre trung hiếu là cây tre trung với Đảng, hiếu với dân. Tình cảm thủy chung, ân nghĩa làm âm hưởng câu thơ thêm tha thiết, lắng đọng mãi mãi trong dư âm của bài thơ.

“Viếng lăng Bác” là bài thơ đẹp và hay của nhà thơ. Bài thơ thể hiện tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ trong một lần được vào thăm lăng Bác. Đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam dành cho người cha già kính yêu. Với những nét đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội dung, bài thơ đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.

BÀI LÀM VĂN SỐ 2 CẢM NHẬN BÀI THƠ "VIẾNG LĂNG BÁC" CỦA VIỄN PHƯƠNG

Viễn Phương là cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, thể hiện cuộc sống ước mơ khát vọng của đồng bào Nam Bộ. "Viếng lăng Bác" là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.

Bài thơ "Viếng lăng Bác" được Viễn Phương viết vào tháng 4 năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được khánh thành, Viễn Phương cùng đoàn đại biểu miền Nam đầu tiên ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác, xúc động ông đã viết lên bài thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính, niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.

Trước hết khổ thơ đầu của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc sáng sớm. Sau hơn hai mươi năm xa cách, người con miền Nam mới được về thăm Bác, bao nỗi xúc động nghẹn ngào:

  •          "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"

Câu thơ giản dị tự nhiên như một lời thông báo mà chứa chan tình cảm thân thương. Nhà thơ xưng "con" gọi "Bác"- cách xưng hô quen thuộc của nhân dân ta với vị lãnh tụ vừa gần gũi vừa thành kính. Đặc biệt đối với Viễn Phương còn mang theo bao tình cảm nỗi nhớ thương của miền Nam trong trái tim Bác. Tác giả không nói "ra viếng" mà là "ra thăm"- như đứa con đi xa giờ mới được về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ. Nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ có gì ngậm ngùi.

>> Xem thêm:  Hiện tượng nói tục chửi thề

Hình ảnh đầu tiên và cũng là ấn tượng đậm nét của nhà thơ về cảnh quan bên lăng là hình ảnh "hàng tre bát ngát":

  •          "Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
  •           Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
  •           Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng."

Hình ảnh hàng tre được miêu tả từ xa đến gần gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng: cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của con người Việt Nam kiên cường bất khuất "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng". Hình ảnh "hàng tre bát ngát quanh lăng" trong cái nhìn xúc động của nhà thơ như hình ảnh nhân dân Việt Nam, cháu con  đang quây quần tụ hội bên Bác, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Ra thăm lăng Bác – một nơi trang nghiêm thành kính, người con miền Nam lại bắt gặp hình ảnh rất quen thuộc của làng quê, của đất nước. Thán từ "ôi" đã thể hiện niềm xúc động nghẹn ngào và cả sự ngạc nhiên bất ngờ của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.

Khổ thơ thứ hai của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc mặt trời lên. Mặt trời lên cao dần, hình ảnh mặt trời gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng:

  •         "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng 
  •          Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ."

Hai câu thơ rực sáng hình ảnh mặt trời: mặt trời của thiên nhiên theo quy luật vận động vũ trụ "ngày ngày đi qua trên lăng"-  thấy một mặt trời khác "mặt trời trong lăng rất đỏ". "Mặt trời trong lăng rất đỏ là hình ảnh ẩn dụ chỉ về Bác Hồ: nếu như mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng, sự sống cho vạn vật thì mặt trời Bác đem lại sự tự do, hạnh phúc cho nhân dân ta. Mặt trời ấy rất đỏ như nhiệt huyết cách mạng, như trái tim yêu thương của Người. Đặt mặt trời Bác sóng đôi trường tồn với mặt trời thiên nhiên không chỉ thể hiện lòng biết ơn mà còn thể hiện lòng ngưỡng mộ ngợi ca sự bất tử của Người.

Chứng kiến dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác trong lòng nhà thơ trào dâng bao xúc động:

  •          "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
  •           Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"

Cấu trúc "ngày ngày… đi" được lặp lại khẳng định quy luật tất yếu: còn mặt trời đi qua tên lăng thì còn dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác. Xếp hàng vào lăng viếng Bác đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong đời sống nhân dân ta. Dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác được liên tưởng như "kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân". Đây là hình ảnh ẩn dụ đẹp giàu ý nghĩa bởi mỗi người vào lăng viếng Bác đều mang theo bao tình cảm, nỗi biết ơn người Cha già. Mỗi người là bông hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác với bao thương nhớ biết ơn. Hình ảnh ẩn dụ " bảy mươi chín mùa xuân" khẳng định cuộc đời Bác mãi là những mùa xuân vĩnh hằng của dân tộc.

Sang đến khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng viếng Bác. Biết bao xúc động trào dâng khi người con miền Nam lần đầu được đối diện với Bác. Trong cái nhìn xúc động của nhà thơ hình ảnh Bác nằm trong lăng hiện ra thật đẹp:

  •         "Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
  •          Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền"

Cả không gian thời gian như ngưng đọng trước hình ảnh có tính chất vĩnh hằng: Bác đang nằm ngủ một giấc ngủ bình yên thanh thản dưới ánh sáng dịu nhẹ của vầng trăng. Gam màu của đoạn thơ không còn chói lọi rực rỡ mà chuyển sang dịu nhẹ phù hợp với không khí tĩnh lặng trong lăng, vầng trăng như đang nâng niu giấc ngủ của Người. Hình ảnh ẩn dụ "vầng trăng" vừa gợi tâm hồn sáng trong thanh cao của Bác vừa gợi những vần thơ đầy trăng của Người.

Niềm xúc động nỗi xót đau của người con miền Nam được thể hiện thật cảm động trong hai câu thơ sau:

>> Xem thêm:  Phân tích nhân vật Trương Định trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”

  •          "Vẫn biết trời xanh là mãi mãi 
  •            Mà sao nghe nhói ở trong tim"

Hình ảnh ẩn dụ "trời xanh" cũng giống như "mặt trời" ,"vầng trăng"- gợi cái vĩ đại, bất tử của Bác. Trong tâm tưởng của mỗi người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam Bác vẫn còn sống mãi với non sông đất nước như trời xanh kia còn mãi. Người đã hóa vào thiên nhiên đất nước núi rừng sự nghiệp của Người mãi là bất tử. Dù vẫn vững tin như thế nhưng trở lại thực tế khi người con miền Nam xa xôi về đến bên Bác thì Bác không còn nữa, nỗi xót đau không gì bù đắp nổi "nghe nhói ở trong tim". Kết cấu "vẫn biết…mà sao" tưởng như đối lập nhau mà lại hài hòa, thống nhất với nhau trong cảm xúc của người con miền Nam khi lần đầu đối diện với Bác.

Khổ thơ cuối kết thúc bài thơ đã thể hiện ước nguyện của nhà thơ khi nghĩ đến mai về miền Nam. Niềm xúc động trào dâng khi nhà thơ nghĩ đến mai về miền Nam: 

  •        "Mai về miền nam thương trào nước mắt" 

Câu thơ có cách diễn đạt mộc mạc mà đằm thắm của người Nam Bộ: mai về có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy nhớ thấy thương thấy lưu luyến "thương trào nước mắt".

Tình cảm ấy đã chắp cánh cho những ước nguyện được hóa thân vào những cảnh vật ở quanh lăng Bác để mãi được ở bên Bác không rời xa:

  •         "Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác  
  •          Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đấy 
  •          Muốn  làm cây tre trung hiếu chốn này."

Nhà thơ muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, muốn làm đóa hoa tỏa hương thơm ngát bên lăng, muốn làm cây tre trung hiếu hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Những ước nguyện ấy thật nhỏ bé mà thật đẹp bởi đều là những ước nguyện dâng hiến cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ "muốn làm" tạo nhịp  thơ dồn dập nhấn mạnh những ước nguyện thiết tha chân thành của nhà thơ. Đặc biệt kết thúc bài thơ ta bắt gặp hình ảnh "cây tre trung hiếu". Hình ảnh cây tre được lặp lại ở khổ thơ đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng làm trọn vẹn cho mạch cảm xúc của nhà thơ. Nhà thơ muốn hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Hình ảnh ẩn dụ "cây tre trung hiếu" hay tấm lòng của người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam một lòng trung hiếu với bác nguyện đi theo con đường mà Bác đã chọn.

Bài thơ đã rất thành công khi sử dụng những nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ tám chữ đan xen những dòng bảy chữ, chín chữ phù hợp với nội dung cảm xúc. Giọng điệu bài thơ vừa trang tghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, phù hợp với tâm trạng cảm xúc khi vào lăng viếng Bác. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt trong bài thơ có nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp gợi sự suy ngẫm sâu xa: "mặt trời", "trời xanh", " tràng hoa". Với những nét đặc sắc nghệ thuật ấy, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. "Viếng lăng Bác" là nén tâm hương mà người con miền Nam thành kính dâng lên bác kính yêu. Cùng với "Trường ca theo chân Bác" của Tố Hữu, "Hoa trước lăng Người" của Chế Lan Viên,… "Viếng Lăng Bác" của Viễn Phương đã góp phần làm phong phú đề tài Bác Hồ trong thơ ca hiện đại. Ngay từ khi ra đời bài thơ đã được khẳng định và trở thành tiếng lòng chung của mỗi người con Việt Nam đối với Bác. "Viếng lăng Bác" là một trong những thành công sớm nhất viết về Người sau ngày Bác đã đi xa.

Như vậy với thể thơ tám chữ giọng điệu vừa  trang nghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng chung của riêng nhà thơ mà còn là tiếng lòng chung của tất cả mọi người đối với Bác. Chính vì vậy bài thơ có sức sống mãi trong lòng người đọc.

Bài viết liên quan