MS318 – Bài thơ Quê hương là một bức tranh mang vẻ đẹp tươi sáng, giàu sức sống của một làng quê


Đề bài: Bài thơ Quê hương là một bức tranh mang vẻ đẹp tươi sáng, giàu sức sống của một làng quê

Bài làm

“Quê hương tôi có con sông xanh biếc

Nước gương trong soi tóc những hàng tre

Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè

Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng”

(Nhớ con sông quê hương)

Một đời thơ chung thủy, gắn chặt với đề tài quê hương, nên Tế Hanh được nhiều bạn đọc biết đến qua biệt hiệu là “nhà thơ của quê hương”. Thành công đầu tiên của ông, đó là bài “Quê hương”.Với những vần thơ bình dị và gợi cảm, bài thơ “Quê hương” đã tái hiện và vẽ ra một bức tranh tươi sáng và sinh động về một làng quê vùng biển trong nỗi nhớ của nhà thơ.

Mười tám tuổi, đi học xa nhà nhớ làng mình cách biển nửa ngày sông bên con sông Trà Bồng, ông viết bài “Quê hương’’( khi phong trào thơ mới đang ở đỉnh cao và bắt đầu đi xuống. Bài thơ in trong tập Hoa niên, được giải thưởng của nhóm tự lực văn đoàn.)

“Chim bay dọc biển đem tin cá”, câu phụ đề của bài thơ cũng đã toát lên sơ bộ tình yêu lẫn nét đặc trưng chung nhất về một miền quê trong bài thơ của ông –một làng chài lưới.

bai tho que huong - MS318 - Bài thơ Quê hương là một bức tranh mang vẻ đẹp tươi sáng, giàu sức sống của một làng quê

Mở đầu, tác giả giới thiệu thật bình dị về làng tôi một cách thật hồn nhiên, vô tư và trong sáng:

“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây cách biển nửa ngày”

Đó là cái làng chài nhỏ nằm trên một cù lao sông cách xa biển bốn bề sóng vỗ.Người dân làng nghèo, lập nghiệp mưu sinh chỉ trông chờ vào biển cả.

 “Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

 Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.”

Bài thơ mở ra một không gian ban mai thật rộng rãi, khoáng đãng, đẹp đẽ. Cảnh thiên nhiên thật trong trẻo, tươi tắn, hứa hẹn một chuyến ra khơi tốt đẹp.

>> Xem thêm:  Hãy bình luận câu tục ngữ sau: "Đất tốt trồng cây rườm rà, Những người thanh lịch nói ra dịu dàng". "Đất xấu trồng cây khẳng khiu, Những người thô tục nói điều phàm phu"

Những hình ảnh “trời trong”, “gió nhẹ”, “sớm mai hồng” là những hình ảnh đẹp vừa rất thực lại vừa lãng mạn: mở ra cảnh bầu trời cao rộng, trong sáng, nhuốm ánh nắng hồng ban mai. Trên đó, nổi bật hình ảnh chiếc thuyền hăng như con tuấn mã và những trai tráng khỏe mạnh , nhanh nhẹn, dũng cảm bơi thuyền đi đánh cá lúc bình minh. Các động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” đã diễn tả không khí hồ hởi, xốc tới dũng mãnh của đoàn thuyền. Bốn câu thơ vừa vẽ nên một phong cảnh thiên nhiên với sắc màu tươi sáng , vừa phác họa lên một bức tranh lao động hứng khởi và dạt dào sức sống.

Hai câu thơ tiếp theo đặc tả cánh buồm no gió bằng một so sánh bất ngờ, độc đáo và đầy lãng nạm:

“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”

Cánh buồm trắng trong tình yêu và nỗi nhớ quê da diết của tác giả là biểu tượng linh hồn của quê hương, biết “rướn thân trắng” để “thâu góp gió biển”, vươn mình đi lên phía trước. Hai câu thơ đã gợi lên một vẻ đẹp bay bổng, thiêng liêng đến bất ngờ. “Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”: bao nhiêu tình cảm của tác giả, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của dân làng được đặt vào trong đó.

Rồi con thuyền đã ra đi bình an, trở về trong niềm vui tràn ngập. Quang cảnh ồn ào, náo nhiệt là hình ảnh quen thuộc của làng chài. Bến đỗ là nơi gặp gỡ, đợi chờ của dân làng. Được mẻ cá đầy ghe, dân biển tạ ơn trời. Lời cảm tạ xuất phát từ đáy lòng chất phát của con người họ:

>> Xem thêm:  MS335 - Cảm xúc ngày Hiến chương các Nhà giáo Việt Nam 20/11

“Ngày hôm sau ồn áo trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.

“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”,

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.

Nếu ở đoạn thơ trước, cả đoàn thuyền ra khơi băng băng, phơi phới, thì ở đoạn thơ kế tiếp âm điệu thơ thư thái, lắng đọng lại theo niềm vui của người dân chài. Từ đây, lại xuất hiện những câu thơ vô cùng tinh tế dành nói về con người và con thuyền nghỉ ngơi si một chuyến ra khơi:

“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”

Phải là đứa con của làng chài mới viết được những câu thơ hay đến thế. Khi về bến, người dân chài vẫn mang trong mình vị biển. Màu da ngăm rám nắng (tả thực) là biểu tượng cho đời sống vất vả. Còn vị xa xăm là vị nặm nồng của biển. Cái sóng, cái gió và cái nắng trong lộng ngoài khơi đã ngấm sâu vào làn da, thớ thịt của người dân chài. Còn con thuyền sau một cuộc vật lộn cùng trùng khơi giờ đây đang trở về nằm im bến nghỉ ngơi mệt mỏi, nghe chất muối nặm nồng đang thấm dần trong từng thớ vỏ. Phải có gắn bó, thấu hiểu con người và cảnh vật quê hương mới có khả năng nghe được “tiếng lòng” của những vật vô tri vô giác như con thuyền ấy.

Những dòng thơ cuối cùng của bài được tạc lên bằng nỗi nhớ, tình yêu, lòng cảm phục và ngưỡng mộ của tác giả đối với quê hương. Ở họ nồng nàn hương vị, sức sống của quê hương. Tất cả đều nói lên khát vọng chinh phục đại dương của dân làng. Trong nỗi nhớ, cảnh vật và con người của quê hương lại một lần nữa được hiện lên đến da diết, cồn cào:

>> Xem thêm:  MS297 - Suy nghĩ về con đường để đi đến hạnh phúc trong cuộc sống từ truyện Tấm Cám

“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng nặm quá!”

Hình ảnh làn nước xanh thể hiện sức sống của quê hương, cá bạc là hạnh phúc no đủ, “chiếc buồm vôi” là hình ảnh gắn bó thân thuộc và “cái mùi nồng nặm” là hương vị của quê hương. Tất cả đã trở thành kỉ niệm, ám ảnh mãi trong tâm hồn nhà thơ.

Bài thơ trong trẻo từ đầu đến cuối. Lời thơ giản dị, mộc mạc, hình ảnh khỏe khoắn, đậm đà tình biển, tình quê .Với những đường nét tươi màu đã chứng tỏ được tình cảm đẹp và trong sáng , xôn xao và lung linh của tác giả đối với quê hương. Đó cũng là nỗi lòng của Tế Hanh với người dân lao động và cuộc sống lao động của làng chài quê hương. Đó cũng là tình cảm trong sáng thắm thiết và khỏe khoắn và hiếm có trong bầu trời củathơ ca đương thời đang có nhiều chỗ ảm đạm.

Thật đúng là mảnh hồn trong trẻo mà nhà thơ có được trước Cách mạng tháng Tám. Quê hương của ông là bài thơ đầu tiên khơi màu cho các bài thơ viết về đề tài quê hương sau này của các tác giả như: Giang Nam, Vũ Cao(Núi đôi, ),…, Đỗ Trung Quân lần lượt ra đời. Quả là:

“Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nỗi thành người”

(Đỗ Trung Quân)

Phạm Lê Thiên Bảo

Lớp 9A2 – Trường THCS Đức Trí, Tp Hồ Chí Minh

Bài viết liên quan