MS559 – Phân tích tinh thần nhân đạo của nhà văn Thạch Lam thể hiện qua tác phẩm Hai đứa trẻ


Đề bài: Phân tích tinh thần nhân đạo của nhà văn Thạch Lam thể hiện qua tác phẩm Hai đứa trẻ

Bài làm

Nhà văn Thạch Lam đã từng nhận định: “Công việc của nhà văn là đi tìm cái kín đáo, che lấp của sự vật, sự việc, tìm cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Sứ mệnh của nhà văn là như thế, là đi tìm “cái đẹp” ở chỗ khó ai có thể ngờ tới được. Và đối với “Hai đứa trẻ”, ông đã dành cả khoảng thời gian dài để tìm kiếm cái đẹp khuất lấp sau những mảnh đời tàn và kiếp sống cũng ngày một lụi tàn, leo lét. “Cái đẹp” mà ông hướng đến trong tác phẩm chính là vẻ đẹp trong tâm hồn nhạy cảm của nhân vật Liên. Cảnh tượng hai chị em Liên cố thức để chờ đợi đoàn tàu chạy qua nơi phố huyện là cảnh tượng đẹp đẽ, góp phần làm nổi bật vẻ đẹp trong tâm hồn hai cô bé.

“Hai đứa trẻ” được xem như là một bài thơ trữ tình mà đượm buồn. Thạch Lam đã phân tích cái “đượm buồn” ấy của không gian làm thấm đẫm lên cả tâm trạng nhân vật và nhuốm màu man mác, dịu nhẹ của một chiều thu. “Chiều. Chiều rồi, một chiều mùa hạ êm như ru và thoảng qua gió mát”. Nét trữ tình đượm buồn ấy của cảnh vật như tô đậm thêm cuộc sống ngày một tàn tạ, quẩn quanh, leo lắt, vô nghĩa, nhàm chán nơi có phố huyện nghèo. Một buổi chợ tàn, “chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Dưới đất chỉ còn sót lại vài thứ bỏ đi: vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía”.

ms559 phan tich tinh than nhan dao cua nha van thach lam the hien qua tac pham hai dua tr - MS559 - Phân tích tinh thần nhân đạo của nhà văn Thạch Lam thể hiện qua tác phẩm Hai đứa trẻ

Một phiên chợ đáng lý ra phải đông đúc, nhộn nhịp thế nhưng đấy lại là một phiên chợ tàn, sau khi mọi người đã rời khỏi thì chẳng còn thứ đáng giá nào sót lại. Thật nghèo khổ và tội nghiệp biết bao! Sau phiên chợ tàn ấy là cả một cuộc sống tàn tạ và những kiếp người cũng ngày một lụi tàn, vô nghĩa. Những âm thanh rời rạc, lẻ tẻ của cảnh vật, con người như nhấn mạnh thêm nét buồn bã, ảm đạm nơi đây. Cuộc sống của mẹ con chị Tí ngày càng khốn khổ, sáng “mò cua, bắt ốc” tối về dọn hàng nước lẻ tẻ, đơn sơ mong mỏi cho thời gian qua nhanh hơn, gia đình bác Xẩm sống bằng “lời ca tiếng hát” cho qua ngày; họ hi vọng nhận được gì đó từ sự bố thí của người đời; thế nhưng nơi phố huyện tàn tạ và rách nát này, con ngưòi còn không đủ ăn, đủ mặc thì sự trông chờ vào những đồng “bố thí” chẳng phải vô nghĩa lắm sao? Lại thêm gánh phở của bác Siêu, hành động lặp đi lặp lại nhiều lần nhưng chẳng có mục đích gì, bởi thực hành của   bác đối với những người nơi đây là những “món quà xa xỉ”. Tiếng cười của bà cụ Thi “điên” ngày này qua ngày khác chìm trong men rượu mà sống, vang lên như ám ảnh hơn bởi nơi đây, với cuộc sống như thế thì lấy ai có thể cất lên tiếng cưòi được. Còn hai chị em Liên, tuổi còn nhỏ nhưng lại gắng gượng sống và ngày nào cũng vậy, chịu khó kiên trì trông quán hàng cho mẹ nhưng dù cho cả ngày chẳng bán được gì cả. Chính cuộc sống như thế đã khiến những con nguòi nơi đây thay đổi suy nghĩ của mình: “Chừng ấy con ngưòi trong bóng tối còn mơ ước, hi vọng một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo nàn của họ”.

Niềm mơ ước dường như mơ hồ và xa vời lắm, bởi đêm nào hai chị em cũng cố thức để chờ đợi Đoàn tàu từ Hà Nội về chạy qua nơi phố huyện nay-cũng chính là hoạt động cuối cùng của một ngày. Tàu đến như mang theo bao hồi ức, kỷ niệm về Hà Nội xa xăm. Vốn dĩ hai chị em Liên không thuộc về nơi này, hai đứa đã quen với “Hà Nội thơ mộng và huyên náo” với những thức uống nước lạnh xanh đỏ mà mẹ vẫn thường mua khi ở Hà Nội. Kỉ niệm đẹp đẽ, hồi ức huy hoàng như ùa về trong tâm trí hai chị em. Thức đợi tàu đâu chỉ vì cuộc sống mưu sinh, cả phố huyện và hơn hết là hai chị em Liên đợi tàu để mong mỏi về cuộc sống tươi đẹp hơn. Tàu đến mang theo ánh sáng rực rỡ của “những lăng kính sáng rực, toa đèn sáng trưng”, những âm thanh huyên náo, nhộn nhịp, sinh động của hoạt động của những hành khách trong chuyến tàu và hơn hết là không khí vui tươi, ồn ào, náo nhiệt cùng sự góp mặt của nhiều người khiến cho phố huyện nghèo như mang một màu áo mới. Những thứ tàu mang đến là đối lập hoàn toàn với không khí ảm đạm, u buồn, não nề nơi phố huyện; với bóng tối ngập đầy dần và ánh sáng thì leo lét, từng “khe” , từng “hột sáng”,… cùng với cả những hoạt động lẻ tẻ, rời rạc vốn có nơi đây. Đoàn tàu đến hay chăng là một thế giới đáng sống với nhiều âm thanh, ánh sáng và ý nghĩa cho cuộc sống tươi đẹp này. Dù chỉ trong chốc lát, đoàn tàu vụt qua và phố huyện lại trở về với cuộc sống, vỏ bọc quen thuộc thường ngày, vốn có. Hình ảnh đoàn tàu là những quan niệm về cuộc sống mà Thạch Lam đã gửi gắm cho nhân vật cô bé Liên: Con người hãy sống cho ra sống, sống chứ không phải là “tồn tại”, đừng mãi chìm trong cái “ao đời phẳng lặng” (Xuân Diệu) mà hãy vươn mình ra ánh sáng, hướng đến cuộc sống tươi đẹp mai sau. Cứ hi vọng, ước mơ dù những ước mong ấy có mơ hồ, xa vời. Những con người đang sống trong cái “ao đời phẳng lặng” ấy thì hãy thức tỉnh bản thân, vươn ra ánh sáng và hành động vì cuộc sống, vì tương lai.

>> Xem thêm:  Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em

Ngoài ra, nhan đề “Hai đứa trẻ” đem lại giá trị nhân đạo nhất định cho tác phẩm. Về nội dung: Nhan đề truyện góp phần thể hiện nội dung chủ đạ, lột tả rõ nét ý đồ nghệ thuật của Thạch Lam, đó là tấm lòng thương cảm sâu xa của nhà văn đối với những kiếp sống tối tăm, mòn mỏi và thái độ nâng niu, trân trọng của ông đối với những tâm hồn trẻ thơ nơi phố huyện. Đặc biệt không kém là giá trị nghệ thuật: Nhan đề góp phần khẳng định ngòi bút giàu tâm tình, bình dị mà gợi cảm của Thạch Lam, đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng của ông đối với tâm hồn non nớt trẻ thơ nơi phố huyện nghèo. Qua Hai đứa trẻ, tinh thần nhân đạo đươc thể hiện thật rõ ràng và sắc nét, với tình cảm xót thương những kiếp người nghèo khổ đồng thời trân trọng, phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo khổ nơi phố huyện. Một câu chuyện nhẹ nhàng, tinh tế, nhưng Hai đứa trẻ đã để lại trong lòng người nhiều dư âm dư vị sâu sắc, nơi mà tiếng nói nhân văn nhân đạo được bộc lộ rõ nét, giàu sức gợi và lay động đến trái tim người đọc.

Cốt truyện đơn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong manh mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. Bút pháp tương phản, đối lập. Miêu tả sinh động những biến đổi tinh tế của cảnh vật và tâm trạng con người. Ngôn ngữ, hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng.  Giọng điệu thủ thỉ thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng. Không chỉ có giá trị độc đáo, sấu sắc về nội dung, có thể nói tài năng sử dụng các thủ pháp nghệ thuật cuả Thạch Lam là một điều vô cùng  đáng trân trọng.

>> Xem thêm:  Bài 29 -Lựa chọn trật từ từ trong câu (tiếp theo)

Với cách kể chuyện nhẹ nhàng,  trữ tình và truyện “như không có cốt truyện” độc đáo. Thạch Lam đã nhẹ nhàng, mà thấm thía thể hiện tinh thần nhân đạo của bản thân ông đối với những kiếp người tàn nơi phố huyện. Ông yêu thương, trân trọng ước mơ tuy còn xa vời của họ và đồng cảm với cuộc sống tù túng, quẩn quanh mà họ đang phải gánh chịu từng ngày. Hình ảnh “chuyến tàu đêm” đi qua phố huyện trong chốc lát như thức tỉnh, như chạm đến trái tim và tâm hồn nhân vật, khiến họ sống tươi đẹp, có ý nghĩa hơn ; cố vươn mình ra ánh sáng và tìm kiếm cuộc sống tốt đẹp mai sau. Chuyến tàu đêm phải chăng là một cuộc sống khác hẳn, đối lập với cái “ao đời phẳng lặng” nơi người dân phố huyện đang sống. Thạch Lam xứng đáng là nhà văn nhân đạo, giàu tình yêu thuơng.

Nguyễn Thị Hoa

Bài viết liên quan