Phân tích bài thơ “Đàn ghita của Lorca” của Thanh Thảo


Phân tích bài thơ “Đàn ghita của Lorca” của Thanh Thảo – Bài làm 1

Thanh Thảo thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng đã tạo được giọng điệu riêng ngay từ khi trình làng thi phẩm đầu tiên "Dấu chân qua trảng cỏ" rồi đến “Những người đi tới biển”, sau đó là “Khối vuông ru-bích”. Ông luôn tìm tòi khám phá, sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Đàn ghita của Lorca là bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy sáng tạo ấy.

Thanh Thảo mở đầu bài thơ bằng chính di nguyện của Lor-ca “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Đây là một di nguyện vừa thiêng liêng vừa cao thượng. Anh không muốn suốt đời là cái bóng ngăn cản sự phát triển của những tài năng trẻ của đất nước mình. Đây chính là cái tâm của người nghệ sĩ lớn suốt đời hi sinh cho nghệ thuật và đấu tranh chống phát xít bạo tàn. Về một ý nghĩa khác Đàn ghita đã gắn với giây phút cuối cùng của cuộc đời Lor-ca. Cái chết của người nghệ sĩ ấy và những phẩm chất tài năng của anh đã bắt gặp hồn thơ Thanh Thảo làm nên thi phẩm tuyệt bút này.

Bài thơ có lối diễn đạt không viết hoa đầu dòng tạo nên một sự liền mạch như một dòng chảy của cảm xúc không có điểm dừng. Sự tài hoa của Thanh Thảo còn làm ta liên tưởng bài thơ như một bản đàn ngân vang với âm thanh “li-la” mênh mang, dìu dặt vút cao chắp cánh đưa người nghệ sĩ bay vút lên trên tất cả bạo tàn và chết chóc.

những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la, li-la, li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chuếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

Những câu thơ mở đầu giàu sức gợi mang đến một trường liên tưởng về một đất nước đẹp tươi với tiếng ghi ta làm mê say lòng người, những vũ nữ Digan với làn da rám nắng và vũ khúc Flamenco cháy bỏng, những trận đấu bò rực lửa và danh dự của người kiếm sĩ và không thể thiếu những miền thảo nguyên bao la xanh bóng nắng. Giữa nắng và gió, giữa bao la thiên địa, Lorca hiện lên ngời sáng trong thơ. Sự chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang thị giác tạo nên « tiếng đàn bọt nước » đầy biến ảo, khi tròn to, khi phập phồng thổn thức, khi vỡ ra tức tưởi như một « thiên bạc mệnh » có tính dự báo về những chông gai, trắc trở mà số phận người nghệ sỹ sẽ phải đón nhận ở phía trước. Và màu «áo choàng đỏ gắt» tiếp theo sau tiếng đàn bọt nước ấy chính là những trận đấu bò sinh tử. Nhưng đấu trường bò tót ngay trong sự chuyển gam của Thanh Thảo đã trở thành một đấu trường chính trị khổng lồ, ngột ngạt, căng thẳng, đẫm máu của Tây Ban Nha thời đó. Màu áo của kiếm sĩ « đỏ gắt » lên hay nền chính trị độc tài thân phát xít đang thiêu đốt tự do dân chủ và kiềm hãm sự phát triển của một nền nghệ thuật đang già cỗi. Đây là một trận chiến lớn giữa một bên là khát vọng dân chủ của nhân dân nói chung, của Lor-ca nói riêng với nền chính trị độc tài. Xét trong lĩnh vực nghệ thuật, đó là cuộc xung đột giữa khát vọng cách tân của nhà thơ với nền nghệ thuật già nua. Xét ở phương diện nào thì Lorca cũng là một chiến sĩ đơn độc đáng thương.

Giữa lúc trận đấu đang căng thẳng thì bỗng vang lên âm thanh du dương, bổng trầm của tiếng đàn: li-la, li-la, li-la một thanh âm trong trẻo, thanh tao quyện hòa mùi hương hoa Lila dìu dịu, lan tỏa với những cánh hoa màu tím nồng nàn đầy sức sống giữa khung cảnh bạo tàn và chết chóc. Đấu trường khốc liệt nhường chỗ cho sự thăng hoa của nghệ thuật. Ai nói nghệ thuật không có sức mạnh. Không ! Nghệ thuật chính là sức mạnh vô địch có thể hóa giải mọi hận thù. Và chàng nghệ sỹ của chúng ta đang thăng hoa trong bản hòa tấu Ghita đầy lãng mạn. Người đọc như đang dõi mắt theo từng bước chân lãng tử của người nghệ sỹ trên hành trình «lang thang về miền đơn độc» cùng với «vầng trăng – yên ngựa». Đây là một hệ thống thi ảnh thường bắt gặp trong thơ Lorca, chàng kị sỹ một mình trên lưng «con ngựa đen/ vầng trăng đỏ » với những bản đàn ghita phiêu bồng cùng giấc mơ tranh đấu. Trong thơ Thanh Thảo, Lorca hiện lên với dáng điệu «chuếnh choáng». Đây là một hình ảnh mang cái hồn say của người nghệ sỹ, không phải cái say tầm thường của những cốc rượu vang đỏ mà là say trong tranh đấu, say trong sáng tạo nghệ thuật. Nếu như chàng Đôn-ki-hô-tê trong trang văn của Xec-van-tec mải miết với giấc mơ hiệp sĩ thì Lorca mãi « mỏi mòn » trong hành trình chống lại tộc ác của bè lũ Phờ-răng-cô. Nhưng đáng thương thay, trong hành trình khát vọng ấy, Lorca là một nghệ sĩ cô đơn trong sáng tạo nghệ thuật và cô độc trong chiến đấu. Nhưng không vì thế « con họa mi của xứ Granada lại ngừng hót ». Chàng vẫn « Mãnh liệt như trăm ngàn sư tử/ Vững chắc như cẩm thạch » (Thơ Lorca)

Càng chiến đấu, Lorca càng say mê, càng “hát nghêu ngao». Nhưng phũ phàng thay « đường chỉ tay đã đứt », định mệnh đã khiến chàng nghệ sĩ du ca của chúng ta phải dở dang hành trình khát vọng. Phát súng của bọn phát xít đã đánh hạ Lorca đáng thương. Thanh Thảo thốt lên sững sờ «bỗng kinh hoàng ». Như không tin vào mắt mình nữa. Cả dân tộc Tây Ban Nha bàng hoàng, cả thế giới nín lặng, bản giao hưởng chùng xuống rồi lại vút cao lên theo « máu anh phun như lửa đạn cầu vồng ». Thanh Thảo tạo dựng cái chết đầy bi phẫn của người anh hùng một cách tức tưởi bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập. Đối lập giữa niềm tin, tình yêu và lạc quan, khát vọng « hát nghêu ngao » với sự thật phũ phàng « áo choàng bê bết đỏ ». Đó là màu máu của Lorca làm tấm áo choàng đỏ gắt càng thêm «bê bết đỏ». Đối với Lorca, anh luôn dự cảm về cái chết nhưng anh cũng không thể ngờ rằng cái chết lại đến với mình nhanh đến thế. Anh đã từng thốt lên «Tôi không muốn nhìn thấy máu ! ». Nhưng máu đã đổ. Người kiếm sĩ muốn một cái chết vinh quang giữa đấu trường cùng với đôi kiếm sắc nhưng lại bị kẻ thù hành hình một cách lén lút bất minh. Nhưng Lorca chấp nhận như người cách mạng đã chấp nhận «Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Gươm kề cổ súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa». Và vì chấp nhận, người anh hùng đã ung dung, bình thản ra giữa pháp trường «chàng đi như người mộng du». Mộng du là trạng thái của tâm hồn đã rời thể xác nhưng không có nghĩa là biến mất khỏi thể xác. Tâm hồn và tinh thần của Lorca đã gửi tất cả vào cuộc tranh đấu và vì thế bước chân mộng du đã hóa thành những bước chân anh hùng. Càng tiếc thương chàng nghệ sĩ bao nhiêu chúng ta lại càng căm phẫn tội ác bấy nhiêu. Và Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh đang bung nở giữa bản hòa tấu trầm hùng mang âm hưởng của những tiếng Ghita nồng nàn vi diệu:

tiếng ghi -ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi -ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi -ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy

Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng! Tôi gọi đây là khúc biến tấu của tiếng đàn, nó thay màu chuyển gam rất lẹ, biến ảo không ngừng và đặc biệt luôn sinh sôi nảy nở, giọt này vỡ đi, giọt kia lại trào ra không dứt. Đó chính là sức sống! Thanh Thảo sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến sự linh hoạt khi miêu tả tiếng đàn. Màu nâu xuất hiện suy tư, trầm tĩnh đến lạ thường. Đó là màu nâu của cây đàn, màu nâu của đất đai, màu nâu của làn da rám nắng trên thân hình những vũ nữ Digan bốc lửa. Trước giây phút từ li, chàng đã ngước nhìn lên bầu trời xanh tha thiết ”bầu trời cô gái ấy”. Đó là bầu trời của khát vọng, bầu trời yêu thương nơi có bóng hình nàng Maria thủy chung. Đối lập với màu nâu trầm tĩnh là màu xanh của "tiếng ghita lá xanh biết mấy”. Màu xanh là sự hóa thân của Lorca và tiếng đàn vào thiên nhiên mang sức sống cỏ cây: màu xanh của những vườn cam, màu xanh của thảo nguyên và những rặng Oliu hay hàng bạch dương nơi Lorca đang yên nghỉ. Hai tiếng biết mấy nằm ở cuối câu vừa là sự tha thiết trong tình cảm của người nghệ sĩ Thanh Thảo vừa để tôn thêm vẻ đẹp của tuổi trẻ Lorca – vẻ đẹp của người chiến sĩ suốt đời hi sinh vì lí tưởng.

Tiếng đàn không chỉ mang sắc màu biến tấu mà còn mang hình khối, đường nét như hình hài của sinh mệnh. Nó cũng tức tưởi vỡ òa, cũng biết nói tiếng nói của sự căm phẫn bạo tàn. Hay nói đúng hơn đó là tiếng kêu cứu của nghệ thuật khi bị đẩy đến bờ vực của sự tuyệt diệt.

tiếng ghi -ta tròn

bọt nước vỡ tan

tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy

Hai tiếng vỡ tan, vừa là sự vỡ ra của bọt nước vừa là sự phập phồng thổn thức của tiếng đàn. Nó đã cất lên lời ca tranh đấu lên án bè lũ phát xít đã hủy diệt cái tài, hủy diệt cái đẹp. Và vì thế bản ghita bi tráng đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn, nó ròng ròng máu chảy, nó uất nghẹn, tức tưởi đến bật máu thành từng dòng đau thương trong một bản đàn giao hưởng hào sảng. Nỗi đau của tiếng đàn cũng là nỗi đau của người nghệ sĩ khi khát vọng chưa thành. Ta cũng đã từng bắt gặp nỗi đau của người nghệ sĩ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ”Một cung gió thảm mây sầu/ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Nỗi đau của Kiều khi hầu đàn Hồ Tôn Hiến khiến cho dây đàn cũng nhỏ máu. Đó chính là sự đồng cảm giữa nghệ thuật và tâm hồn của người sinh ra nó. Thì ra nghệ thuật trong bản thể của nó cũng là một sinh mệnh.

Với thủ pháp nghệ thuật so sánh và liên tưởng, Thanh Thảo đã làm sống dậy một không gian sinh tồn đầy sức sống mãnh liệt.không ai chôn cất tiếng đàntiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

Không ai chôn cất tiếng đàn hay không ai có thể chôn cất được tiếng đàn ? Có lẽ nên hiểu theo cách thứ hai. Thứ nhất bởi nó là di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm của tinh thần được kết tinh từ hương sắc cuộc đời của người nghệ sĩ nhân dân. Thứ hai bởi sức sống mãnh liệt và hoang dại của nó như loài cỏ mọc hoang không gì có thể ngăn nổi chúng. Đây chính là sự bất tử, sự vĩnh hằng của nghệ thuật. Dù Lorca hi sinh nhưng sản phẩm tinh thần mà ông để lại đó chính là tâm hồn mình, nghệ thuật của mình. Những bài ca tranh đấu của Lorca vẫn đồng hành cùng thời gian và đi cùng năm tháng thăng trầm của lịch sử và nó mãi mãi được hát vang trong lòng của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.

Không chỉ bất tử, tiếng đàn của chàng ca sĩ hát rong còn mang vẻ đẹp của giọt nước mắt vầng trăng. Một hình ảnh mang nhiều liên tưởng gợi nhiều thi vị. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp của nghệ thuật được kết tinh từ những giọt mồ hôi, từ máu và nước mắt của sự lao động nghệ thuật chân chính qua bao thời gian công sức đã nhào nặn thành viên ngọc lấp lánh mang hình hài của giọt nước mắt vầng trăng tinh khiết. Hay đó chính là vẻ đẹp của cuộc đời Lorca đã hóa thân thành viên ngọc quý lung linh tỏa sáng giữa đời. Bất ngờ thay, nơi đáy giếng tối tăm và lạnh lẽo, nơi mà bọn phát xít ngỡ tưởng đã vùi lấp được linh hồn và thể xác của người công dân Lorca, lại là nơi tỏa sáng tâm hồn anh. Ở khổ cuối của bài thơ, Thanh Thảo đưa người đọc vào thế giới suy tư về sự giải thoát của Lorca:

đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lorca bơi sang ngang

trên chiếc ghita màu bạc

chàng ném lá bùa cô gái Digan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

li-la, li-la, li-la

Và cuối cùng chàng nghệ sĩ của chúng ta đã dừng bước giang hồ trước dòng sông của định mệnh khi đường chỉ tay đã đứt. Sinh mệnh chấm dứt. Chàng rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian để trở về cõi vĩnh hằng. Dòng sông vô hình dung là dòng sông cuộc đời, dòng sông của số phận và cũng là đường ranh giới ngăn cách giữa sự sống và cõi chết. Trên dòng sông ấy, Lorca đang bơi sang ngang cùng di vật đàn ghita. Màu bạc của cây đàn là sự biến ảo từ màu nâu trầm tĩnh sang xanh thiết tha hi vọng và cuối cùng là màu của sự hư ảo trong cõi siêu sinh. Lorca đang bơi trên con thuyền thi ca mà cây đàn chính là con thuyền bàng bạc chở tình yêu và nỗi nhớ của chàng đang trôi dần vào bến bờ bất tử. Chàng dứt khoát rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian ném lá bùa vào xoáy nước, ném trái tim vào cõi lặng yên. Xoáy nước là cuộc tranh đấu hay sự hiểm nguy trên dòng sông của định mệnh ? Cõi lặng yên phải chăng là phút giây mà trái tim người nghệ sĩ ngừng đập ? Có lẽ ta không cần phải lí giải về nó. Bởi Lorca đã về nơi an nghỉ cuối cùng. Chỉ còn vang vọng nơi đây âm vọng của tiếng đàn li-la, li-la, li-la như bản nhạc thiết tha, thấm đẫm hương thơm của loài hoa Lila đưa người nghệ sĩ – chiến sĩ về với cõi vĩnh hằng với bao niềm tiếc thương vô hạn. Tôi chợt nhớ tới bài thơ Ghi nhớ của anh:

Khi nào tôi chết

hãy vùi thây tôi

cùng với cây đàn dưới lớp cát hàng bạch dương

Khi nào tôi chết

hãy vùi thây tôi giữa rặng cây cam

và đám bạc hà.

Khi nào tôi chết

hãy vùi thây tôi, tôi xin các người đó,

nơi một chiếc chong chóng gió.

Có lẽ ở một nơi nào đó, chàng nghệ sĩ nhân dân đang được sống giữa những sự yên vui và đầy ánh nắng của tự do nơi đó không có bạo tàn và chết chóc.

Bài thơ đã rất thành công khi tạo dựng một tượng đài Lorca bằng ngôn ngữ của thơ và âm nhạc. Với lối thơ không viết hoa đầu dòng, cảm xúc liền mạch, Thanh Thảo đã mang đến cho người đọc một mĩ cảm hiện đại giàu tính sáng tạo. Sự trộn lẫn giữa trường phái tượng trưng siêu thực và sức sáng tạo của Thanh Thảo đã cho ra đời một tuyệt bút đầy ngẫu hứng giàu chất nhạc. Trên hết là nhà thơ đã mang đến cho người đọc một tình yêu vô bờ bến đối với nhà thơ nhân dân chống phát xít bạo tàn. Bất kỳ một cuộc chiến nào cũng có người chiến thắng và kẻ bại trận nhưng những người biết hi sinh vì mọi người luôn luôn là người anh hùng với chiến thắng vĩ đại nhất. Gacxia Lorca là một người như thế.

Phân tích bài thơ “Đàn ghita của Lorca” của Thanh Thảo – Bài làm 2

Thanh Thảo sinh năm 1946, quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông vào công tác ở chiến trường miền Nam thời chống Mỹ khốc liệt. Thanh Thảo được công chúng yêu văn học biết đến qua những tác phẩm mang diện mạo độc đáo viết về chiến tranh và thời hậu chiến như Những người đi tới biển (1977), Dấu chân qua trảng cỏ (1958), Khối vuông ru-bích (1985), Từ một đến một trăm (1988).

Thanh Thảo được coi là một nhà thơ luôn có ý thức tìm tòi cách tân cho thơ Việt đương đại, với xu hướng đào sâu vào cái tôi nội cảm, vận dụng phần vô thức của nhà thơ để có thể thấu thị được bản chất sâu thẳm của các vấn đề xã hội và thời đại. Từ đó, nhà thơ thăng hoa thành những lời thơ có tính tượng trưng siêu thực, gợi ra những liên tưởng đa chiều, đa nghĩa ở bạn đọc qua một hệ thống thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” được ông viết ở trại sáng tác Quân khu Năm-Đà Nẵng năm 1979, được công chúng biết đến lần đầu vào năm 1985 khi tập thơ “Khối vuông ru-bích” ra đời. Có thể xem đây là một bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo.

Để hiểu bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”, trước hết ta phải hiểu về nhân vật Phi-đe-ri-co Gar-xi-a Lor-ca (1898-1936). Ông là một tài năng sáng chói của văn học Tây Ban Nha hiện đại, được xem là thần đồng có năng khiếu thiên bẩm về thơ ca, hội hoạ, âm nhạc, sân khấu, … Sau khi tốt nghiệp Đại học Luật năm 1919, Lor-ca lên thủ đô Madrit hoạt động nghệ thuật, trong bối cảnh đất nước Tây Ban Nha bị bao trùm bởi bầu không khí ngột ngạt của chế độ cai trị độc tài Pri-nô-đê Ri-vê-ra. Lor-ca nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng, vừa khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Vì thế, năm 1936, chế độ phản động thân phát xít đã thủ tiêu Lor-ca. Từ đó, tên tuổi Lor-ca đã trở thành một biểu tượng, một ngọn cờ tập hợp các nhà văn hoá Tây Ban Nha và thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hoá dân tộc và văn minh nhân loại.

Với nhà thơ Thanh Thảo, ông đã mang trong ba lô ra chiến trường những bài thơ của Lor-ca, qua bản dịch của Hoàng Hưng, chép trong sổ tay như ông tâm sự “Thực ra Lor-ca đã sống trong tôi từ những năm 1969-1970 qua bản dịch chép tay mà chúng tôi truyền cho nhau… Và tôi đã viết “Đàn ghi ta của Lor-ca” trong cái ngày rầu rầu của năm 1979 ấy. Bài thơ được viết rất nhanh và hầu như không sửa chữa gì thêm” (Văn học và tuổi trẻ, số tháng 3/2009). Thanh Thảo nói thêm: “tôi viết bài thơ trong trạng thái không nghĩ ngợi gì, một trạng thái mà vô thức chiếm lĩnh tôi trọn vẹn”. Điều này chứng tỏ Lor-ca đã ám ảnh tâm thức của Thanh Thảo trong một thời gian dài, đến ngưỡng cảm hứng, thì tự nhiên bài thơ đã ngân vang như một khúc giao hưởng trầm buồn với phần đệm là những giọt âm thanh luyến láy thiết tha li-la li-la li-la ngân lên từ cây ghi ta cổ điển.

những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

Mở đầu cho bài thơ của mình, Thanh Thảo giới thiệu với bạn đọc hình ảnh người nghệ sĩ Lor-ca qua những âm thanh, sắc màu, hình ảnh có tính tượng trưng, gợi liên tưởng đa chiều. Ấn tượng về những tiếng đàn bọt nước sao quá mỏng manh, như người nghệ sĩ Lor-ca chỉ với cây ghi ta và vần thơ mang theo khát vọng tự do dân chủ, một mình chiến đấu với bè lũ Phrăng-cô độc tài phát xít. Đây quả là một sự tương phản khắc nghiệt giữa “tiếng đàn bọt nước” với “áo choàng đỏ gắt”, gợi ra khung cảnh một đấu trường giữa võ sĩ với bò tót. Nhưng đây không hề là cuộc đấu để khẳng định sức mạnh của cơ bắp, mà là một cuộc chiến đấu giữa khát vọng dân chủ của công dân Lor-ca với nền chính trị độc tài, của khát vọng cách tân nghệ thuật của chàng nghệ sĩ tâm huyết tài năng Lor-ca với nền nghệ thuật cằn cỗi già nua. Dù ở cương vị nào, chúng ta cũng nhận ra đây là cuộc đấu không cân sức, Lor-ca đang rất đơn độc trên hành trình lí tưởng gian nan, soi bóng lẻ loi giữa con đường đời đầy nguy hiểm mà chỉ có cây đàn, tiếng hát hộ thân.

>> Xem thêm:  Tình yêu thương giữa con người với con người thể hiện qua tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân

Trong cuộc đấu khốc liệt này, Lor-ca luôn bị ám ảnh về cái chết, nhưng không ngờ nó lại đến với ông quá sớm, đến ở cái tuổi ba tám, tuổi con người đang vào độ phát tiết tinh hoa! “Con chim hoạ mi Tây Ban Nha” không còn lên tiếng hót. Thanh Thảo đã cất lên lời thơ đầy xót tiếc ngậm ngùi:

Tây Ban Nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lor-ca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như người mộng du

Lời thơ vang lên là một chuỗi tự sự, nhưng cấu trúc lại đứt đoạn như để nhằm diễn tả cuộc đời Lor-ca “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”. Hình ảnh thơ tả thực “áo choàng bê bết đỏ” đã phản ánh hiện thực phũ phàng, tàn khốc đổ xuống đời Lor-ca. Cái chết bi thảm của Lor-ca là một sự kiện chính trị lớn ở Tây Ban Nha. Nó tạo ra một hiệu ứng dây chuyền, được Thanh Thảo diễn tả theo lối tượng trưng độc đáo:

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

Lời thơ mở ra nhiều chiều suy tưởng. Chính tác giả cũng băn khoăn tâm sự: “Tôi không hiểu mình tâm đắc cái gì nhất từ bài thơ này. Có thể là số phận bi thảm của Lor-ca nói riêng, của thơ ca nói chung chăng? Có thể là cái “tiếng đàn bọt nước” lúc hiện lúc tan như sự tự huỷ và tái sinh liên tục của thơ chăng? Hay là khát vọng tự do mà Lor-ca vĩ đại đã truyền cho tôi qua thi ca của ông” (Văn học và tuổi trẻ, số tháng 3/2009). Lời thơ của Thanh Thảo liên tục chuyển đổi cảm giác : từ tiếng ghi ta nâu vang lên âm thanh ám ảnh, như mang theo khát vọng tự do và tình yêu mà Lor-ca gởi trao đến mọi người, đến An-na Ma-ri-a -người yêu chung thuỷ. Lời thơ vang lên giai điệu ghi ta nâu vỡ ra, tan hoà thành sắc màu tượng trưng cho sự sống “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”; rồi đột ngột kết đọng thành những dòng máu thắm chảy ròng ròng của người nghệ sĩ Lor-ca hy sinh vì tự do và nghệ thuật.

Cái chết bi tráng của Lor-ca đã tạo ra một nỗi xót thương vô hạn đối với nhân dân Tây Ban Nha và nhân loại tiến bộ. Thanh Thảo cũng như bất cứ ai yêu mến nghệ thuật đều tiếc nuối khi những cách tân của Lor-ca đang còn dang dở:

không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

Thanh Thảo đã lấy lời di chúc của Lor-ca “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” làm đề từ cho bài thơ của mình. Đây chính là di ngôn đầy tâm huyết của người nghệ sĩ chân chính. Lor-ca không muốn nghệ thuật của mình vì được công chúng yêu mến đưa lên đài danh dự, rồi vô tình sẽ trở thành một vật cản trên con đường sáng tạo không có giới hạn đối với thế hệ sau. Nam Cao cũng từng phát biểu rằng: “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa).

Song ý thơ của Thanh Thảo vẫn gợi ra ở người đọc nỗi băn khoăn khi người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca mất đi, như dàn nghệ thuật Tây Ban Nha thiếu nhà nhạc trưởng tài hoa, bản giao hưởng sẽ loạn nhịp, “tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Đây thực sự là một mất mát lớn lao của nhân dân Tây Ban Nha, của nền nghệ thuật ở xứ sở Tây Ban cầm. Thanh Thảo chia sẻ niềm đau này bằng một hình ảnh thơ đẹp, được sắp đặt theo lối soi chiếu vào nhau, cho sắc màu lung linh chiếu toả :

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

Từ cách sắp đặt hình ảnh thơ này, nó tạo ra những liên tưởng có tính hiệu ứng dây chuyền. Giọt nước mắt tiếc thương của những người mến mộ dành cho Lor-ca như vầng trăng soi vào đáy giếng, lung linh, lan toả từ người này sang người khác, từ đất nước Tây Ban Nha lan ra cả nhân loại tiến bộ, và thêm một chuỗi nước mắt của Thanh Thảo góp vào, tạo ra sự cộng hưởng tình cảm ở đông đảo bạn đọc Việt Nam, khi nghĩ về Lor-ca với “tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm… tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ”

Dù sao thì Lor-ca cũng đã mất. Thanh Thảo cũng như bất cứ ai có lòng tưởng mộ thiên tài đành phải thừa nhận định mệnh phũ phàng, khi đường sinh mệnh của nhà thơ đã dứt. Điều quan trọng hơn, là ông đã kịp hoà vào trong dòng sông tình cảm ái mộ của công chúng, để tiếp tục trôi chảy với thời gian.

đường chỉ tay đã dứt

dòng sông rộng vô cùng

Lor-ca bơi sang ngang

Trên chiếc ghi ta màu bạc

Hãy để cho Lor-ca được ra đi một cách thanh thản, thoát khỏi mọi hệ luỵ, phiền toái của cuộc đời gian nan.

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng im bất chợt

li-la li-la li-la…

Lá bùa hộ mệnh rồi cũng đến lúc không cần nữa, trái tim của bất cứ ai rồi cũng đến lúc bất chợt lặng yên, chỉ khác nhau là nó đến sớm hay muộn đối với mỗi cuộc đời. Riêng Lor-ca, dù nhịp tim của nhà thơ không còn đập nữa, nhưng dư ba con sóng thơ cùng với giai điệu tiếng đàn ghi ta li-la li-la li-la tha thiết mang theo khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật của ông, tin rằng nó sẽ được cộng hưởng lan toả trong không – thời gian, neo đậu lâu dài trong tình cảm mến mộ của công chúng yêu nghệ thuật.

Phân tích bài thơ “Đàn ghita của Lorca” của Thanh Thảo – Bài làm 3

Thanh Thảo là nhà thơ với tài năng thơ ca mà đã đem đến cho thơ ca thời đó tiếng nói trung thực của một thế hệ tình nguyện cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Thơ Thanh Thảo cũng chứa đựng những nét tài hoa và mang tính liên tưởng cao. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca in trong tập Khối vuông rubich, là một trong số đó, và được dư luận đánh giá là thành công về nhiều mặt.

Cái chết của Lor-ca là sự kiện gây chấn động dư luận không những ở Tây Ban Nha mà còn trên toàn thế giới, chính vì vậy khi Thanh Thảo yêu mến khí phách cũng như tài năng của Lor-ca nên đã dành tâm huyết để viết nên bài thơ giống như dựng một tượng đài sừng sững về Lor-ca trong tâm tưởng những người mến mộ.

Đàn ghi ta của Lorca viết về cái chết a Lor-ca một  thi sĩ, nhạc sĩ, nhà biên kịch thiên tài người Tây Ban Nha. Hình tượng Lorca là một  hình tượng lẫm liệt và dòng máu về nhiệt huyết về đam mê vẫn chảy mãi và khắc ghi trong những con người Tây Ban Nha. Chính vì dòng máu nóng bỏng nhiệt tình thôi thúc ông cất cao tiếng đàn, tiếng hát, lời thơ để ca ngợi tự do bất diệt, phản đối bản chất tàn bạo, xấu xa của bè lũ phát xít Phơ-răng-cô. Lorca đã bị sát hại khi tuổi chỉ mới 38.Qua tiếng đàn người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Lor-ca và biểu tượng nghệ thuật Lor-ca trong mạch cảm xúc và suy tư đa chiều, vừa sâu sắc, vừa mãnh liệt của tác giả.

Lorca được cảm nhận từ nhiều góc độ và đa chiều với hình tượng yêu tự do và ông là một nghệ sĩ cô đơn . Bài thơ “ Đàn ghi ta của Locar” đã  làm sống lại huyền thoại của đất nước Tây Ban Nha

Mở đầu với sự cất lên tiếng đàn rộn rã đầy hứng khởi , nó tượng trưng cho tâm hồn sôi nổi, mạnh mẽ, yêu đời của Lor-ca nói riêng và của dân tộc Tây Ban Nha nói chung:

Những tiếng đàn bọt nước 

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt 

li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc 

với vầng trăng chếnh choáng 

trên yên ngựa mỏi mòn 

Những nét đặc trưng của Tây Ban Nha ngay từ đầu đã được khơi gợi một cách khéo léo, đó là màu áo choàng đỏ gắt nhắc tới một nét độc đáo trong đời sống văn hóa của người dân Tây Ban Nha. . Những nét chấm phá vẽ ra hình ảnh Lor-ca – một nghệ sĩ tự do và đơn độc một cách đầy ấn tượng. Áo choàng đỏ khiến người ta liên tưởng tới môn đấu bò môt nét văn hóa ở Tây Ban Nha, vừa giúp chúng ta hình dung khá cụ thể về Lor-ca.

Áo đỏ của các chàng đấu sĩ nổi bật giữa đấu trường với chiếc áo choàng đỏ thắm trên vai và mảnh vải đỏ trong tay, bằng sự sáng suốt, khéo léo và lòng dũng cảm sẽ hạ gục chú bò tót to lớn, hung dữ trong một hiệp đấu ngắn ngủi trước sự chứng kiến của hàng vạn khán giả.

Cảm xúc từ sự sống bừng bừng đột ngột chuyển sang cái chết bi thảm chỉ trong khoảnh khắc, một khoảnh khắc nghiệt ngã, kinh hoàng. 

Tây Ban Nha hát nghêu ngao 

bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ 

Lor-ca bị điệu về bãi bắn 

chàng đi như người mộng du

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

Đó là cái chết của Lorca khiến nhiều người không khỏi kinh ngạc và ám ảnh :

Bằng cách sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đa nghĩa và đối lập được tác giả khai thác triệt để nhằm thể hiện bi kịch của Lor-ca.

Từ đó đoạn thơ đã làm nổi bật sự đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với bạo lực tàn ác của bọn phát xít giữa niềm lạc quan yêu đời với hiện thực đẫm máu. 

Biểu hiện cho sự sống bỗng nhiên tắt trước cái chết khủng khiếp hiện diện qua hình ảnh gây ấn tượng rùng rợn : áo choàng bê bết đỏ. Lorca đã bị bắn máu chảy thành dòng và rướm cả vào áo choàng và cây đàn ghita. Tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy không đơn thuần chỉ là nghệ thuật nhân hóa mà cao hơn thế, nó là linh hồn của Lor-ca, là một hình ảnh gây ấn tượng và ám ảnh sâu đậm, day dứt khôn nguôi.

Những câu chữ trong thơ tạo nên hình khối, thành dòng máu chảy, góp phần nêu bật ý nghĩa tiếng đàn ghi ta ở những cung bậc khác nhau, hoàn cảnh khác nhau. ư

 Sự bất tử của tiếng đàn Lor-ca còn biểu hiện tập trung ở những khổ thơ cuối. Sự khâm phục chân thành và lòng tiếc thương vô hạn của nhà thơ Thanh Thảo đối với Lor-ca. Mỗi so sánh là một ẩn dụ về cái đẹp,  tình yêu, nỗi đau, cái chết tương ứng với tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy.

Câu thơ như tiếng nấc có âm điệu ngắt quãng giống như tiếng khóc nghẹn ngào, thổn thức:

Không ai chôn cất tiếng đàn 

tiếng đàn như cỏ mọc hoang 

giọt nước mắt 

vầng trăng long lanh trong đáy giếng

đường chỉ tay đã đứt 

dòng sông rộng vô cùng 

Lor-ca bơi sang ngang 

trên chiếc ghi ta màu bạc

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan 

vào xoáy nước 

chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt 

li-la li-la li-la…

Các biện pháp so sánh và ẩn dụ tượng trưng để khắc đậm niềm tin.  ,vì quá thương tiếc mà nhà thơ dùng những hình ảnh ẩn dụ cho cái chết cảu Lỏca Cùng với ý không ai chôn cất tiếng đàn, hình ảnh đường chỉ tay là ẩn dụ về số phận, về định mệnh nghiệt ngã.. Và hành động ném lá bùa, ném trái tim mình cũng có ý nghĩa tượng trưng cho sự giã từ vĩnh viễn, một sự lựa chọn của Lor-ca.Sự bất tử của Lorca thì tinh thần của ông và nghệ sĩ tài năng như ông đã có sức lan tỏa tới người đọc , tới những con người yêu chuộng tự do và hòa bình yêu lạc quan.

Tiếng đàn của ông cứ thế lan tỏa không ai có thể chế ngự và cất lên những âm thanh vang vọng: không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang… người mà ông suốt đời theo đuổi. Đấy là cái đẹp không bạo lực nào có thể hủy diệt nổi. Nó sẽ sống mãi, truyền lan mãi, giản dị mà kiên cường như cỏ dại. Nó còn chứa đựng cả tâm trạng của người nghệ sĩ đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn: giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng,… như giọt nước mắt khóc thương người nghệ sĩ chân chính của nhân dân. Cuộc đời, số phận của Lor-ca đã kết thúc nhưng tiếng đàn và sự ảnh hưởng của ông vẫn ngân nga, vang vọng mãi: li-la li-la li-la.

 Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca là bài thơ dồi dào nhạc tính, được sáng tạo với chủ ý tô đậm hình Lor-ca – nghệ sĩ hát rong vĩ đại. Bằng chính tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân mình. Nhạc tính của bài thơ từ vần và nhịp, các thủ pháp láy từ, điệp từ, sự kết hợp ngẫu hứng giữa các từ ngữ tạo nên những giai điệu mang tính chất âm nhạc khiến người đọc bị cuốn hút.

Phân tích bài thơ “Đàn ghita của Lorca” của Thanh Thảo – Bài làm 4

Là 1 nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kì gian khổ nhưng Thanh Thảo không viết nhiều về thời kì kháng chiến chống Đế quốc Mỹ. Có lẽ ông thực sự để lại tên tuổi của mình với những bài thơ thời hậu chiến. Sở trường của nhà thơ đó là khắc họa chân dung của những người nghệ sĩ và 1 trong những bức chân dung thành công nhất của Thanh Thảo đó chính là chân dung G. Lor-ca trong bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca” 1 người nghệ sĩ nổi tiếng của Tây Ban Nha nói riêng và của Châu Âu nói chung trong cuộc chiến tranh TG lần thứ 2. T/p được xem là linh hồn của tập thơ “Khối vuông ru-bích” xuất bản năm 1985. Bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" được xem như 1 bản điếu văn bằng thơ rất đẹp mà Thanh Thảo – 1 nhà thơ hậu thế – đã dành tặng Lor-ca. Thông qua đó, Thanh Thảo đã thể hiện sự đồng điệu trong tâm hồn mình, sự phá cách đối với thơ ca giai đoạn thời kì hậu chiến.

Đến với "Đàn ghi ta của Lor-ca", ấn tượng đầu tiên đối với độc giả bạn đọc là những vần thơ:

“những tiếng đàn bọt nước

Tây-ban-nha áo choàng đỏ gắt”

2 câu thơ này được xem như lời mở đầu dựng lên bức chân dung của thi sĩ Lor-ca. Ở đây ta cần phải hiểu “những tiếng đàn” theo nghĩa gợi mở. Đó chính là những tiếng thơ của Lor-ca, những tiếng ghi ta của Lorca. Như vậy “những tiếng đàn” ở đây là đa nghĩa. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, đó chính là NT của Lorca mà NT của Lorca lại được hiểu dưới nhiều lĩnh vực: 1 nhà thơ nổi tiếng; 1 nhà viết kịch, soạn kịch tài ba; là 1 nghệ sĩ ghi ta xuất chúng đã từng được ví như con chim sơn ca. Tuy nhiên tất cả những cái NT này được dự báo vô cùng mong manh như những gì là bọt nước, nhất là lúc bấy giờ chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện.

Đối lập với tiếng đàn, đến câu thơ thứ 2 ta lại bắt gặp h/a:

“Tây-ban-nha áo choàng đỏ gắt”

H/a chiếc “áo choàng đỏ gắt” gợi cho người yêu thơ 1 nền VH rất Tây Ban Nha, giúp ta liên tưởng đến 1 đấu trường bò tót ở xứ sở Tây Ban Nha. Nhưng trong đấu trường này, người nghệ sĩ 1 mình đơn độc đó là Lorca đang phải đối lập lại với 1 nền VC già cỗi ở Châu Âu, phải đối lập lại với 1 nền chính trị của bọn phát xít Phrăng-cô. 1 mình anh vô cùng kiêu hãnh chẳng khác nào như 1 chàng Đông-ki-sốt của nhà văn Xéc-van-tét.

Đến đây, chân dung của Lor-ca lại 1 lần nữa được dần dần hiện ra qua những câu thơ:

“đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn”

Cuộc sống của Lorca lúc bấy giờ được hiện lên 1 cách rõ nét thông qua những từ như “đơn độc”, “chếnh choáng”, “mỏi mòn”. Nó dựng lên cho ta thấy 1 bức chân dung rất đơn độc của người nghệ sĩ. Đơn độc bởi Lorca là 1 người cách tân trong NT. Người đi đầu trong cách tân bao giờ cũng rất cô đơn. Lorca đã mang đến cho thi đàn Châu Âu 1 thể thơ đó là thể thơ siêu thực. Vì vậy, khi viết bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca", Thanh Thảo đã mượn lại cái lối viết thơ siêu thực. Thơ siêu thực người nghệ sĩ thường tổ chức theo cấu trúc của 1 hình thang:

Tây-ban-nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lorca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như người mộng du

Thơ siêu thực cách tân từ hình thức cho đến ND. Vì vậy, ông thường đặt 2 h/a bên cạnh nhau tưởng như vô nghĩa nhưng lại tạo ra rất nhiều trường nghĩa. Tiêu biểu ta phải kể đến đó là h/a “những tiếng đàn bọt nước”. Tuy giữa “những tiếng đàn” và “bọt nước” không hề có 1 liên từ nào nhưng người yêu thơ bằng sự nhạy cảm về NT có thể tự mình đặt liên từ vào: giọt nước mắt như vầng trăng, giọt nước mắt là vầng trăng. Như vậy, rõ ràng câu thơ này hiện lên với rất nhiều ngữ nghĩa khác nhau. Để hiểu được "Đàn ghi ta của Lor-ca", người yêu thơ phải dùng tất cả mọi giác quan để tổng hợp tất cả những ngữ nghĩa này bởi thơ hay ý tại ngôn ngoại, lời ít ý nhiều, 1 câu thơ được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.

Cần phải khẳng định 1 điều rằng “vầng trăng chếnh choáng” và “yên ngựa mỏi mòn” là những h/a xuất hiện rất nhiều trong thơ của Lorca. Vì vậy, Thanh Thảo khi viết về Lorca đã mượn lại nhiều thi liệu trong thơ của Lorca. Ngay từ lời đề từ, Thanh Thảo đã mượn lại tứ thơ trong bài “Ghi nhớ” của Lorca:

“Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta”

Điều ấy đã khiến cho bức chân dung của người nghệ sĩ được dựng lên rất thành công. Tuy nhiên, đây không phải là 1 NT mới đối với thơ viết chân dung bởi khi viết bài thơ “Kính gửi cụ Ng Du”, Tố Hữu đã từng mượn NT tập Kiều, nảy Kiều:

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân

Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều…

Hỡi lòng tê tái thương yêu

Giữa dòng trong đục, bánh bèo lênh đênh.

Ngổn ngang bên nghĩa bên tình

Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao?

Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào

Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường!

Lấy chất liệu trong thơ Lorca để viết về chân dung của Lorca, Thanh Thảo đã thể hiện sự đồng điệu trong thơ của mình và "Đàn ghi ta của Lor-ca" được xem như nhịp 1 câu nối để bắt nhịp giữa VH Tây Ban Nha và VH VN, để bắt nhịp giữa nhà thơ Lorca với nhà thơ Thanh Thảo

Một nét đặc sắc mà ta không thể bỏ qua trong bài thơ này đó là câu thơ:

“li-la li-la li-la”

Kết thúc bài thơ, 1 lần nữa câu thơ ấy cũng xuất hiện. Nếu nhìn từ góc độ âm nhạc thì đây như 1 bản nhạc, 1 bản sô-nat bởi “li-la” là tiếng đàn mà nhạc công chơi lên để thể hiện ND bài hát. Trước khi kết thúc, lại 1 tiếng đàn dạo lại cuối cùng:

>> Xem thêm:  Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc" của Tố Hữu: "Ta về mình có nhớ ta,(...) Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

“li-la li-la li-la”

Hiểu rộng hơn, li-la là 1 loài hoa tử đinh hương có màu tím như mê hoặc lòng người. Đây cũng là một màu hoa rất chuộng của người Âu Châu. Phải chăng ở đây, Thanh Thảo đã 2 lần mượn lại loài hoa tử đinh hương này để gửi gắm tấm lòng mình đối với hương hồn của Lorca. Nó như 1 chuỗi hoa tử đinh hương mà Thhanh Thảo đã kết lại để dâng lên cho Lorca.

Đến khổ thơ thứ 2, Thanh Thảo đã gợi lại cái chết bi thảm của Lorca:

“Tây-ban-nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lorca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như người mộng du”

Mở ra khổ thơ này với câu thơ “Tây Ban Nha”, Thanh Thảo đã khẳng định tiếng thơ nà chính là tiếng lòng của tất cả người dân Tây Ban Nha yêu nước. Nó thể hiện tình yêu quê hương đất nước của xứ sở Tây Ban Nha. Nó tương phản hoàn toàn với lợi ích chính trị của bọn phát xít Phrăng-cô. Và nó đã dẫn đến cái chết đầy bi thảm:

“bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ”

Cái màu đỏ ấy giờ đây không còn là màu đỏ của VH Tây Ban Nha trong đấu trường bò tót nữa mà nó chính là máu của Lorca. Khi bị điệu về bãi bắn, vẫn biết rằng cái chết đang đến gần nhưng Lorca vẫn đi như người bị mộng du. Lúc này Lor ca không nghĩ đến hiện tại, không nghĩ đến cái chết, không nghĩ đến qua ra bãi bắn mà vẫn đang nghĩ đến cái miền cách tân đơn độc của mình. Điều này có nghĩa là bọn phát xít Phrăng-cô có thể tiêu diệt được Lorca về thể xác nhưng không thể tiêu diệt được tiếng đàn của Lorca, tiếng thơ của Lorca. Nó ăn sâu vào tâm hồn của những người Tây Ban Nha yêu nước, ăn sâu vào tâm hồn của những người yêu chuộng hòa bình trên TG này.

Từ tiền đề ấy, nhà thơ tập trung lại để phân tích tiếng thơ của Lorca. Lorca có thể không còn nhưng tiếng thơ của ông thì vẫn còn đấy bởi ND thơ của Lorca, NT của Lorca xuất hiện:

“tiếng ghi-ta nâu

bầu trời cô gái ấy”

Ở đây vần “âu” trong từ “nâu” bắt vần với vần “âu” trong từ “bầu”. Như vậy, muốn hiểu được tiếng ghi ta nâu trong câu thơ này ta phải xuất phát từ h/a cô gái ấy. Đó chính là cô gái di gan, người yêu của Lorca. Năm 19 tuổi, cô gái ấy đã bói cho Lorca và khẳng định rằng anh là người chết yểu. Thế là cô đã tặng Lorca 1 chiếc bùa hộ mệnh. Nhưng chiếc bùa ấy nó tượng trưng cho 1 lực lượng siêu nhiên nào đó, hoàn toàn bị bất lực trước tội ác của loài người, tội ác mà bọn phát xít gây ra. Như vậy rõ ràng tiếng ghi ta nâu ở đây là 1 ND trong thơ của Lorca: đó chính là tình yêu Lorca dành cho người gái Di gan.

Bên cạnh tiếng ghi ta nâu, ta cũng bắt gặp tiếng ghi ta lá xanh:

“tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy”

H/a lá xanh ở đây tượng trưng cho màu xanh của những rặng ô liu xanh mướt, một màu xanh trầm mặc của quê hương. Như vậy, thơ Lorca thể hiện tình yêu quê hương đất nước rất rõ trong từng cung bậc thơ. Đó chính là màu xanh tượng trưng cho miền quê hương Andaluxia của Lorca.

“tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan”

Ở đây h/a tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan làm ta liên tưởng đến câu thơ đầu tiên: “Những tiếng đàn bọt nước”. Như vậy rõ ràng cái tiếng đàn này chẳng khác nào tiếng đàn của Kiều năm xưa trong thơ Ng Du. H/a “bọt nước vỡ tan” này dự báo cho tiếng đàn NT của Lorca cũng sẽ như những bọt nước vô cùng mong manh và đến đây thì hoàn toàn bị vỡ. Kéo theo đó ta thấy xuất hiện:

“tiếng ghi-ta ròng ròng

máu chảy”

Như vậy rõ ràng Thanh Thảo đã mượn cái nỗi bi nhất trong đời Lorca để viết lên bài thơ này.

Đến khổ thơ tiếp theo, ta bắt gặp câu thơ:

“không ai chôn cất tiếng đàn”

Ở đây không ai chôn được tiếng đàn bởi tiếng đàn là âm thanh. Nó là giá trị tinh thần được lưu truyền mãi trong không gian và TG bởi nó là cái đẹp. Cũng như tiếng đàn, không ai chôn được thơ của orca bởi đó là những bài thơ yêu chuộng hòa bình là những vần thơ đấu tranh cho quyền sống, cho loài người, để tiêu diệt thế lực phát xít trong XH lúc bấy giờ.

“tiếng đàn như cỏ mọc hoang”

Cái h/a cỏ mọc hoang ấy gợi cho ta nhơ đến 1 địa điểm vắng người qua lại. Miền đất ấy vắng người bởi đây là 1 miền cách tân về NT chưa ai đặt chân đến. Tuy nhiên ta cũng cần phải hiểu cỏ mọc hoang ở đây tượng trưng cho cái sức sống mãnh liệt rất riêng của Lorca mà phát xít không thể tiêu diệt được. Nó vọng mãi với TG, vọng sang cả VN, nhập vào tâm hồn của Thanh Thảo để đến với người yêu thơ VN.

“giọt nước mắt vầng trăng

Đây là 1 trong những câu thơ tiêu biểu cho thẻ thơ siêu thực. Khi SD thể thơ này, người nghệ sĩ thường đặt 2 h/a bên cạnh nhau tưởng như vô nghĩa nhưng người yêu thơ suy nghĩ lại thì thấy nó lại vô cùng nhiều nghĩa. Nó tạo nên được nhiều trường nghĩa ví như “giọt nước mắt vầng trăng”. Người yêu thơ chỉ cần thêm những liên từ như “giọt nước mắt” và “vầng trăng” để tạo ra quan hệ đẳng lập, “giọt nước mắt” của “vầng trăng” để tạo quan hệ sở hữu, “giọt nước mắt” như “vầng trăng” tạo quan hệ so sánh,… Tất cả những ngữ nghĩa này đều là ngữ nghĩa của câu thơ. Nếu hiểu theo nghĩa “giọt nước mắt” của “vầng trăng” thì người yêu thơ dễ dàng nhận ra cái chết của Lorca rung động đến tận cả trời.

“long lanh trong đáy giếng”

Có câu thơ này bởi bọn Phát xít Phrăng-cô tiêu diệt Lorca và tiêu hủy xác. Hiện nay xác của Lorca đang ở đâu đang là 1 điều đáng bàn. Báo văn nghệ 5/2006 đã đưa ra 3 dữ liệu đó là quăng xác xuống 1 đáy giếng, quăng xác bên 1 dòng sông và quăng xác ở quê hương Andaluxia của Lorca. 3 dữ liệu này đều được Thanh Thảo đưa vào bài thơ, nhất là h/a long lanh trong đáy giếng.

“Đường chỉ tay đã đứt

Dòng sông rộng vô cùng

Lor-ca bơi sang ngang

Trên chiếc ghi ta màu bạc

chàng ném lá bùa cô gái Digan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

li – la li – la li – la”

Toàn bộ đoạn thơ này được Thanh Thảo viết như 1 lời cầu siêu thoát cho cái chết của Lorca

Phân tích bài thơ “Đàn ghita của Lorca” của Thanh Thảo – Bài làm 5

Lorca là nhà thơ như thế nào? Đàn ghi ta của ông có cái gì đặc biệt? Vầng trăng, yên ngựa, bước chân lang thang, tiếng hát nghêu ngao, bãi bắn, tấm áo choàng bê bết đỏ, giọt nước mắt vầng trăng trong đáy giếng, lá bùa cô gái di gan… là những cái gì đây? Đó có thể là những câu hỏi thầm vang lên trong tâm trí độc giả bình thường khi tiếp nhận bài thơ. Nếu không chịu bỏ cuộc trên hành trình giải mã văn bản này và quyết tìm tới những văn bản khác đã làm nền cho nó (theo sự chỉ dẫn của các câu thơ trong bài), độc giả sẽ thực sự được đền bù. Trước mắt chúng ta lúc đó sẽ là một thế giới thi ca chói loà của thiên tài Lorca, là bức tranh bi tráng về thân phận người nghệ sĩ trong một thời đại biến động như bão táp, là vẻ đẹp lung linh của nghệ thuật vượt lên trên mọi sự đe doạ của các thế lực bạo tàn, nguy hiểm. Từ những điều vừa thấy, nhìn ngược lại văn bản thơ đã tạo cơ hội mở rộng chân trời hiểu biết cho mình – bài Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo – ta sẽ nhận ra từ đây một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lorca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp.

Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê Andalucía yêu dấu của Lorca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc:

những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy? – Trước hết là nhờ “đàn ghi ta của Lorca”. Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lorca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lorca, là bản mệnh của Lorca. Đọc thơ Lorca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,… Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Granada thuộc xứ Andalucía, nơi ngày xưa từng được xem là “một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi” do người Ả Rập dựng nên. Ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái di gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta – âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta)… Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lorca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự “trích dẫn”. Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo “nguồn gốc”, vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lorca – người mê dân ca, “chàng hát rong thời trung cổ”, “con sơn ca xứ Andalucía”. Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lorca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng “song trùng” với hình tượng Lorca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lorca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lorca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lorca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một “văn bản” khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 – cái “văn bản” đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý:

Tây Ban Nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lorca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như người mộng du

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lorca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự tương tác, xô nhau, đan cài nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lorca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lorca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lorca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn. Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lorca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị – xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lorca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau: áo choàng bê bết đỏ ­– tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lorca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này). Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lorca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca Andalucía) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lorca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành “vấn đề” trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhòe đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lorca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ?… Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng!

Ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lorca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ:

không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh đáy giếng

đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lorca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

chàng ném lá bùa cô gái di gan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

li-la li-la li-la…

Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lorca trong bài Ghi nhớ – lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của Lorca. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ “chân dung” hay “ai điệu”, nhằm làm nổi bật những tứ thơ “mới” mang tính chất “ăn theo”. Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực?) gần Granada. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lorca – một ý nguyện thể hiện phẩm chất nghệ sĩ hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở – đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí: không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai chôn được! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.

>> Xem thêm:  Hướng dẫn soạn văn Vợ chồng A Phủ của tác giả Tô Hoài

Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù “nội dung”) mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn… Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã “khôn dần lên”, sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lorca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại…

Trên thực tế, cái chết của Lorca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Franco gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lorca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, “nhẹ nhõm” và “mênh mang” (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lorca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái di gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó “chìm lỉm” (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt – cái lặng yên của sự “đốn ngộ”, cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lorca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người! Ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê su trên núi Golgotha (núi Sọ). Lại thêm một “văn bản” nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo(2)!…

Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều “văn bản” khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được “tắm” trong một “dung môi” cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên: li-la li-la li-la…

Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả “đặc hữu” của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, “lời” vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc – cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan – để thấu nhập bề sâu, “bề xa” của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy Đàn ghi ta của Lorca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lorca –. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch.

Phân tích bài thơ “Đàn ghita của Lorca” của Thanh Thảo – Bài làm 6

Khi tâm hồn nghệ sĩ đồng cảm với một tâm hồn nghệ sĩ thì khoảng cách và văn hóa sẽ không còn là dào cản. Nhà thơ Thanh Thảo đã dành một tình cảm, sự chân trọng như thế với người nghệ sĩ tài hoa Fê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (1898 – 1936), một nghệ sĩ tài hoa của đất nước Tây Ban Nha. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” in trong tập “Khối vuông ru bích” (1985) chính là thể hiện điều đó. Bài thơ như gẩy lên tiếng đàn thánh thót tiễn đưa người nghệ sĩ đa tài nhưng không thoát khỏi sự éo le của số phận, cũng như thể hiện một cây bút xuất sắc trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam – tác giả đầy nhiệt huyết, phản ánh tiếng nói của người tri thức đầy suy tư, trăn trở trước các vấn đề nóng bỏng của xã hội và thời đại. Nhà thơ muốn cuộc sống phải được cảm nhận và thể hiện ở chiều sâu bản chất của nó nên ông không chấp nhận lỗi biểu đạt ồn ào, dễ dãi. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” đã thể hiện được đầy đủ phong cách nghệ thuật Thanh Thảo, cũng đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc.

Những tiếng đàn bọt nước 

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt 

Lilalilalila 
đi lang thang về miền đơn độc 

với vầng trăng chếnh choáng 

trên yên ngựa mỏi mòn 

Tây Ban Nha 

hát nghêu ngao 

bỗng kinh hoàng 

áo choàng bê bết đỏ 

Lorca bị điệu về bãi bắn 

chàng đi như người mộng du 

tiếng ghi ta nâu 

bầu trời cô gái ấy 

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy 

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan 

tiếng ghi ta ròng ròng 

máu chảy 

không ai chôn cất tiếng đàn 

tiếng đàn như cỏ mọc hoang 

giọt nước mắt vầng trăng 

long lanh trong đáy giếng 

đường chỉ tay đã đứt 

dòng sông rộng vô cùng 

Lorca bơi sang ngang 

trên chiếc ghi ta màu bạc 

chàng ném lá bùa cô gái Digan 

vào xoáy nước 

chàng ném trái tim mình 

vào lặng yên bất chợt 

lilalilalila…

“Đàn ghi ta của Lor-ca” ngay nhan đề thôi cũng đã gợi mở cho ta thấy được một bầu trời nghệ thuật mở ra. Đàn ghi ta cây đàn gắn với sự nghiệp của Lor ca, gắn với những tác phẩm nổi tiếng của ông, hay đàn ghi ta chính là người bạn đồng hành đi cùng người nghệ sĩ du ca, đi khắp đất nước Tây Ban Nha mang lại những tác phẩm du dương làm phong phú thêm cuộc sống muôn màu. Bài thơ chính là nói đến vẻ đẹp của nghệ thuật, vẻ đẹp của người nghệ sĩ đơn độc, vẻ đẹp của tiếng đàn thanh sắc, vẻ đẹp của cái chết cho tự do. Hình ảnh đất nước Tây Ban Nha một thời chống  chế độ độc tài Phát xít Ph- răng – cô cũng hiện lên rõ nét như thế. Người nghệ sĩ tài hoa ra đi nhưng những gì Lor-ca để lại hoàn toàn là bất diệt. Bài thơ cũng như nói lên nỗi lòng của nhà thơ Thanh Thảo, tiếng tương một nhân tài, nuối tiếc một tài năng thiên bẩm mà phải ra ở tuổi 38, từng câu thơ đều nói lên nỗi luyền thương như vậy.

Câu thơ đề từ cũng  lại một lần nữa đánh sâu vào tâm trí bạn đọc, hằn sâu đến nỗi ám ảnh, mang một ý nghĩa sâu xa:

“Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”

Đây chính là lời của Lor-ca trước khi phải rời đến thế giới bên kia. Nó như một lời báo hiệu có điều chẳng lành, đúng là như vậy, ông đã chết khi còn quá trẻ, khi tài năng đang nở rộ. Tâm nguyện này mang nhiều ý nghĩa, phải chăng Lor-ca muốn chôn vùi tài năng, chôn vùi những gì ông để lại xuống dưới nấm mồ kia để không ai còn biết đến, phải chăng ông đã nhận ra một điều nếu những thứ ấy còn tồn tại thì thế hệ tiếp sau sẽ khó có thể vượt qua tài năng của ông, sẽ là bước tường cản trở sự phát triển của thi ca nhân loại. Hay chỉ đơn thuần là suy nghĩ được sống với nghệ thuật và khi chết đi cũng luôn được mang theo bên mình, thể hiện tình yêu bất diệt với tiếng đàn và chính quê hương, xử sở.

Khổ thơ đầu của bài thơ vẽ nên hình tượng Lor-ca đẹp đẽ với khoảng trời nghệ thuật, nhưng bên cạnh đó cũng chính là bầu trời chính trị u ám dưới chế độ độc tài phát xít, cái đẹp bị vùi dập đến cô đơn.

“Những tiếng đàn bọt nước 

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt 

Lilalilalila 

đi lang thang về miền đơn độc 

với vầng trăng chếnh choáng 

trên yên ngựa mỏi mòn

Tiếng đàn đã trở thành hình khối, nhà thơ Thanh Thảo thật sự đã đưa con người ta đến những tưởng tượng khó nói nên lời, âm thanh lại biết thành những khối vật lý hình tròn, hình tròn bọt nước. bọt nước ấy tinh khiết, thanh cao, đẹp đẽ. Hình ảnh ngay sau đó là “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”, cả một nền văn hóa đã hiện ra chỉ một vài từ nhẹ nhàng đơn giản, Tây Ban Nha, xử sở đấu bò tót, với những kị sĩ mặc áo choàng đỏ, hình ảnh ấn tượng vô cùng. Nhưng màu đỏ ấy lại là “đỏ gắt” như đã nói lên một sự chẳng lành, một đất nước đang sống trong những ngày tháng căng thẳng, sục sôi, bất mãn và đau khổ.

Lilalialila…

Chuỗi âm thanh của tiếng đàn ghi ta hiện lên như một lời giải cứu, nghệ thuật vẫn tồn tại, cái đẹp không thể bị chôn vùi. Lila cũng là tên một loài hoa rất đặc biệt ở đất nước Tây Ban Nha, hoa tử linh hương, tác giả như đã ngầm gửi đến ngàn đóa hoa tươi đẹp nhất dành cho Lor-ca.

“Đi lang thang về miền cô độc”

Người nghệ sĩ du ca một mình một ngựa đi khắp đất nước thân yêu của mình, hát tặng nhân dân của mình những bản tình ca sâu đậm. Tác giả khéo léo sự dụng hai từ láy đặc biệt tạo hình “chếnh choảng”, “mỏi mòn” đã làm cho người đọc như nhìn thấy bức tranh tuyệt đẹp có thiên nhiên, hoa cỏ, nhưng sao buồn quá, con người trong tranh ấy hoàn toàn cô đơn, một mình mang nghệ thuật đến một chân trời xa xa.

Tây Ban Nha 

hát nghêu ngao 

bỗng kinh hoàng 

áo choàng bê bết đỏ 

Lorca bị điệu về bãi bắn 

chàng đi như người mộng du 

tiếng ghi ta nâu 

bầu trời cô gái ấy 

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy 

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan 

tiếng ghi ta ròng ròng 

máu chảy 

Hai khổ thơ nói về cái chết của Lor-ca, thực sự đến quá nhanh, nhanh đến kinh hoàng. Hai câu khổ thơ như nói lên nỗi lòng của tác giả, ông xót thương cho một người nghệ sĩ phải hi sinh bằng ngòi bút như rướm máu, ông đã thể hiện điều đó bằng ngôn ngữ của trái tim. Thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong đoạn thơ này là cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đa nghĩa và đối lập được tác giả khai thác triệt để nhằm thể hiện bi kịch của Lor-ca. Đoạn thơ đã làm nổi bật sự đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với bạo lực tàn ác của bọn phát xít, giữa tiếng hát yêu đời với hiện thực phũ phàng đẫm máu.

Hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ” như vừa nói lên cái chết đầy oan ức của Lorca cũng như tố cáo chế độ độc tài phát xít Ph-răng cô tước đi mang sống của một người nghệ sị tài hoa. Hình ảnh ấy nói lên sự khát khao cuộc sống tự do, bình yên, một sự đấu tranh khốc liệt cho cái đẹp mà người tài hoa yêu quý. Trạng thái của Lorca đã như người mộng du, trạng thái ấy trước khi đối diện với cái chết đó không phải là sự sợ hãi mà đó là nỗi tiếc thương. Sự kiện thảm khốc ấy tạo ra những cú sốc cho chính Lor-ca, cho người dân Tây Ban Nha hay chính đối với tác giả. Nhà thơ đã diễn tả theo lối ẩn dụ tượng trưng với sự chuyển đổi cảm giác liên tục khá mới mẻ, táo bạo, qua những âm thanh vỡ ra thành màu sắc, hình khối, thành dòng máu chảy, góp phần làm nên tiếng đàn ghi ta ở những cung bậc cảm xúc khác nhau. Sự so sánh tài tình của tác giả khi nói về tiếng đàn ghi ta thực sự đều để lại ẩn tượng cho những ai đọc tác phẩm này. Tiếng ghi ta nâu làm hiện ra một bầu trời tương đẹp, tiếng ghi ta như màu lá xanh tươi mới, tiếng ghi ta lại thành hình khối như  bọt nước tròn vo, hình ảnh rất đẹp nhưng lại diễn ta một cái chết bi thương “tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy”.

Tiếng ghi ta đã được nhân hóa thành con người, thành số phận, tiếng ghi ta ấy chính là linh hồn của Lorca. Một hình ảnh gây ám ảnh, day dứt đối với tâm hồn người đọc.

Người nghệ sĩ ra đi, nhưng để lại một kho tàng nghệ thuật phong phú, những tác phẩm của ông sẽ còn sống mãi. Đó là một niềm tin về sự bất diệt của nghệ thuật, của cái đẹp, sự khát khao tự do, công bằng, công lý. Khổ thơ cuối bài thể hiện sự tiếc thương vô hạn của nhà thơ Thanh Thảo đối với Lor-ca là cơ sở vững chắc cho niềm tin mãnh liệt ấy.

“không ai chôn cất tiếng đàn 

tiếng đàn như cỏ mọc hoang 

giọt nước mắt vầng trăng 

long lanh trong đáy giếng 

đường chỉ tay đã đứt 

dòng sông rộng vô cùng 

Lorca bơi sang ngang 

trên chiếc ghi ta màu bạc 

chàng ném lá bùa cô gái Digan 

vào xoáy nước 

chàng ném trái tim mình 

vào lặng yên bất chợt 

lilalilalila…”

Không ai chôn cất tiếng đàn, câu thơ này thể hiện hai ý nghĩa, thứ nhất có thể thấy rằng không ai dám chôn cất tiếng đàn, tại sao vậy? Ý nguyện của Lor-ca là “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” vì sao không ai làm điều đó. Vì không ai muốn chôn vùi, không ai muốn phải chôn vùi đi một nghệ thuật đỉnh cao. Ý nghĩa thứ hai đó là không thể chôn vùi nổi một cái đẹp đã đến độ hoàn hảo, dù Lor-ca có chết những nghệ thuật của ông còn mãi, thế hệ mai sau sẽ noi theo mà sáng tạo mà cố gắng. “Giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh nơi đáy giếng” đây là một hình ảnh ấn dụ xâu sắc, sau khi Lor-ca chết, ông đã bị bọn phát xít ném xác xuống giếng. Một loạt hình ảnh ẩn dụ hiện lên sâu đậm “đường  chỉ tay đã đứt” hình ảnh ẩn dụ cho số phận ngắn ngủ, người nghệ sĩ tài hoa phải hi sinh khi tuổi còn quá trẻ. “Lor-ca bơi sang ngang/trên chiếc ghi ta màu bạc” hình ảnh ấy như cho ta cảm giác Lor-ca khi về đến thế giới bên kia cũng được nâng đỡ bởi nghệ thuật, bởi tiếng đàn. Chiếc ghi ta màu bạc, thể hiện sự trang nghiêm, thanh thoát, trở thành con thuyền đưa ông nhẹ nhàng về thế giới bên kia. Hai khổ thơ này tác giả như sử dụng triệt để lối thơ tượng trưng đầy ám ảnh.

“chàng ném lá bùa cô gái Digan 

vào xoáy nước 

chàng ném trái tim mình 

vào lặng yên bất chợt”

Hình ảnh ấy phải chăng là sự giải thoát, Lor-ca đã đi về với về giới bên kia, để cho xoáy nước cuốn đi những oan ức, những khát khao, không còn vướng bận đến cõi trần. Trái tim ấy đã ngừng đập, một lặng yên bất chợt đến bàng hoàng, hụt hẫng. Âm điệu như lắng xuống, đầy xót xa, nhà thơ Thanh Thảo đã thể hiện sâu sắc tình cảm của mình đối với Lor-ca trong những câu thơ cuối bài này.

Người nghệ sĩ đã chết những tiếng đàn vẫn còn đó “Lilalilalila…” một khúc ngân của bản nhạc khó dứt, một đóa hoa Tử linh hương Thanh Thảo muốn đặt lên mộ viếng người thi sĩ, một sự đồng cảm dâng trào. Có thể thấy nghệ thuật không phân biệt biên giời, người nghệ sĩ phương Đông tiếc thương một nhân tài phương Tây bằng tất cả sự chân thành, và sự trân trọng cái đẹp.

Lilalilalila….

Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ lấy nguồn cảm hứng từ tiếng đàn. Tác giả đã rất khéo léo dùng những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng độc đáo gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc. Thể thơ tự do, khá thoải mái để bộc lộ cảm xúc. Hơn thế nữa điểm đặc biệt của bài thơ chính là không hề có dấu chấm câu khi kết thúc câu, hay đoạn. Đó cũng chính là dụng ý của tác giả, làm cho mạch thơ không dứt, làm cho tình cảm được trải dài trong cả bài thơ. Thực sự phong cách thơ Thanh Thảo rất độc đáo, không trộn lẫn, đặc trưng cho người tri thức luôn mê mải đi tìm vẻ đẹp hoàn hảo, thanh cao.

Qua bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” Cho ta thấy Nhà thơ Thanh Thảo đã viết về Lor-ca bằng rung động mãnh liệt của cảm xúc, bằng tấm lòng “liên tài” rất đáng trân trọng. Những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ chứng tỏ tâm huyết và khát vọng đổi mới thơ ca của tác giả, góp phần làm cho khả năng thể hiện của ngôn ngữ tiếng Việt thêm tinh tế, phong phú và đa dạng. Bài thơ đã để lại những ấn tượng khó phải đối với những ai đã từng đọc, có thể thấy rằng nghệ thuật sẽ mãi mãi sống cùng nhân loại.

Bài viết liên quan